BÁT QUAN TRAI GIỚI GIẢNG YẾU
Tập 8
Chủ giảng: Pháp sư thượng Định hạ Hoằng
Thời gian: Ngày 16 tháng 9 năm 2017
Giảng tại: Chùa Thiện Quả Lâm Tịnh Độ – Đài Loan
Trì giới là gốc,
Tịnh Độ là nơi trở về.
Quán tâm là điều quan
trọng,
Bạn lành là nơi nương tựa.
Kính
chào chư vị Pháp sư, chư vị liên hữu, kính chào mọi người. Mời bỏ tay xuống.
Hôm
nay chúng ta bắt đầu học tập điều giới thứ tư: “Không vọng ngữ”. Vọng ngữ tức là dùng tâm dối gạt người
khác mà nói, hoặc là bày tỏ, nói ra những thông tin hư vọng không thật, khiến
cho người khác sau khi nghe xong, hoặc là sau khi hiểu rồi thì nảy sinh cảm tưởng
sai lầm. Người nói vọng ngữ, bản thân biết mình đang dối gạt người khác, như vậy
là phạm giới vọng ngữ rồi. Vọng ngữ thì chắc chắn sẽ mất đi thành tín, ngay cả
thánh nhân của thế gian là Khổng lão phu tử cũng nói: “Nhân vô tín
tắc bất lập”, nếu ngay cả chữ tín cũng không có, thì
người này không cách nào có chỗ đứng trong xã hội. Chính nhân quân tử ở thế
gian cũng không nói vọng ngữ, đệ tử Phật chúng ta chí nguyện cầu xuất thế thành
Phật, sao có thể nói vọng ngữ để dối gạt người khác? Cho nên Phật phải chế định
điều giới này, giúp chúng ta tu dưỡng khẩu đức. Đương nhiên vọng ngữ không chỉ
là khẩu nghiệp, mà còn có thể dùng thân nghiệp để tạo tác. Ví dụ như người khác
hỏi quý vị: “Anh đạt được niệm Phật tam muội chưa?” Quý vị chỉ gật đầu không
nói chuyện, đây chính là dùng thân nghiệp để tạo tác vọng ngữ, tội đó cũng như
nhau. Bởi vì thông thường chủ yếu là dùng khẩu nghiệp tạo tác, cho nên gọi là vọng
ngữ, chữ “ngữ” đó là ngôn ngữ từ miệng, trên thực tế phạm vi mà nó bao gồm
không chỉ là khẩu nghiệp, mà thân nghiệp cũng bao gồm trong đó.
Trước
tiên chúng tôi nói đến chế ý của điều giới này, vì sao Phật phải chế điều giới
này. Căn cứ vào Giới Bổn Sớ nói: “Vô lậu thánh đạo, phi phàm sở chứng”. Chúng
ta có thể chia điều giới này thành hai điều nhỏ: Thứ nhất là giới đại vọng ngữ,
thứ hai là giới tiểu vọng ngữ. Đại vọng ngữ tức là nói chính mình đã chứng được
thánh đạo rồi, hoặc đã tu được cảnh giới vượt hơn người phàm, được pháp hơn người
rồi, như vậy thuộc về đại vọng ngữ; nếu nói những nội dung thông thường dối gạt
người khác, chính là thuộc về tiểu vọng ngữ. Chúng tôi nói đến đại vọng ngữ trước,
sau đó mới nói tiểu vọng ngữ. Chế giới của điều giới này là giới đại vọng ngữ, “vô lậu thánh
đạo”
tức là đoạn phiền não rồi, tối thiểu là đã chứng được sơ quả, đây không phải là
cảnh giới mà người phàm chứng được. “Do vị đắc cố, mạo giả hư đàm, tự ngôn kỷ
chứng, hoặc loạn quần tâm, khi phụ ư thế, hy chiêu danh lợi, ế pháp võng thời,
quá trung chi thậm, cố tu cực chế”. Bản thân vẫn chưa đạt được vô lậu thánh
đạo, nhưng lại giả mạo bản thân là người đạt được thánh đạo, mà đàm luận, tuyên
thuyết một cách hư vọng, nói bản thân đã chứng được thánh đạo, chứng sơ quả, chứng
nhị quả, tam quả, tứ quả.
Sơ
quả là đoạn kiến hoặc rồi, nhị quả trở lên thì phần đoạn tư hoặc, đến tứ quả
A-la-hán là đoạn hoàn toàn tư hoặc, nên ra khỏi tam giới. Những vị này đều chẳng
phải là phàm phu, đều là thánh nhân. Cho đến A-la-hán trở lên còn có rất nhiều
cấp bậc Bồ-tát, dùng Viên giáo để nói, A-la-hán đoạn kiến tư phiền não rồi,
cũng chỉ là Thất-tín-vị của Viên giáo thôi. Đương nhiên vị A-la-hán này là hồi
tiểu hướng đại, có thể vào giai vị A-la-hán của Viên giáo, thì tương đương với
Bồ-tát của Thất-tín-vị. Thăng cấp lên thì không phải là Tiểu-thừa giáo, là Tạng
giáo mà Thiên Thai tông nói, không phải là điều họ có thể tưởng tượng được nữa.
Bát-tín, Cửu-tín, Thập-tín, Thập-tín-tâm-mãn vào Sơ-trụ, Bồ-tát Sơ-trụ-vị của Viên giáo, Sơ-trụ-vị chính là
Pháp-thân Đại sĩ, đó chính là đồng sanh tánh với Phật, đều đã chuyển thức
thành trí rồi. A-la-hán vẫn dùng thức, dùng tâm của ý thức thứ sáu để phân biệt,
họ chỉ đoạn ngã chấp, chưa đoạn pháp chấp. Bồ-tát của Viên giáo Sơ-trụ-vị,
đương nhiên các Ngài đã chuyển tâm ý thức thành dùng trí huệ quán chiếu, trong
Duy thức nói Ngài vẫn dùng ý thức, nhưng ý thức này là trí huệ. Khác với ý thức
của phàm phu chúng ta rồi, cho nên với chúng ta là dị sanh tánh, chúng
ta gọi là dị sanh tánh. Trí huệ đó của Ngài giống như Phật vậy, chuyển ý
thức thức sáu thành diệu quán sát trí, có thể quán sát chân đế và tục đế, viên
dung trung đạo, nhất tâm tam quán. Cho nên sự quán sát này khác với sự quán sát
bởi ý thức thức sáu của phàm phu. A-la-hán dùng ý thức có thể quán chân đế,
phàm phu chỉ có thể quán đến tục đế, mà đều là thiên lệch, vì dùng tâm phiền
não để quán sát. A-la-hán đã đoạn được phiền não ngã chấp, sự quán sát của Ngài
thù thắng hơn phàm phu chúng ta, nhưng không cách nào so sánh với Bồ-tát Sơ-trụ
trở lên của Viên giáo. Sơ-trụ đến Thập-trụ, phía trên có Thập-hạnh, Thập-hồi-hướng,
Thập-địa, Đẳng-giác, Diệu-giác, nhiều quả vị như vậy, đều không phải là cảnh giới
của phàm phu.
Nếu
nói dối là bản thân đã chứng đắc rồi, thì sẽ làm mê hoặc rối loạn tâm đạo của đại
chúng. Vì sao vậy? Họ tưởng như vậy thì gọi là chứng quả rồi, dụng tâm như vậy,
hành vi như vậy chính là thánh nhân, thế thì sai lầm rồi. “Khi phụ ư thế”,
đây chính là dối đời trộm tiếng tăm, bản thân mưu cầu để được danh lợi. Vì sao
vậy? Mọi người tưởng quý vị là thánh nhân, quý vị là đại Bồ-tát rồi, hiện nay
nói chứng quả A-la-hán đều là quả nhỏ, gọi là đại Bồ-tát, thậm chí còn là Phật,
Phật tái lai. Vậy thì người khác thờ phụng quý vị lên rồi, cung kính cúng dường
thì danh văn lợi dưỡng đều đến rồi, cho nên nói đại vọng ngữ là vì cầu điều
này. Vậy thì nghiệp rất nặng, vì sao vậy? Xem như là đoạn Pháp thân huệ mạng của
người khác, người khác tưởng như vậy là thánh đạo rồi, liền theo hướng của quý
vị mà tu, tu thành công thì sẽ được như quý vị. Cho nên “ế pháp võng thời”,
chữ “ế” này có nghĩa là hôn ám, khiến cho chánh pháp u ám, không thể hiển lộ, bị
tà pháp này của quý vị làm chướng ngại rồi. “Võng thời” chính là dối gạt đại
chúng hiện thời, khiến cho mọi người đi sai đường. Lỗi lầm này vô cùng sâu nặng,
cho nên đức Phật đại thánh phải “cực chế”, chế
điều giới này thành giới trọng căn bản thượng phẩm, cùng với “giết người”, “trộm
năm tiền”, “hành dâm” đều thuộc về giới trọng, là bốn giới trọng. Đây là ý
nghĩa mà đức Phật chế định điều giới này.
Trong
Giới Bổn Sớ nói: “Hựu xuất gia chi sĩ”. Người xuất gia, đương nhiên nếu
như chỉ phạm vi rộng lớn, thì bao gồm người tại gia học Phật của chúng ta. Đệ tử
học Phật “ngôn tức xứng thật”, lời nói của chúng ta nhất định phải đúng
sự thật, không thể nói lời hư dối, không thể nói trái lòng mình, phải dùng tâm
trực, tâm chính trực. Tâm của người học Phật chính trực giống như một mũi tên vậy,
không uốn khúc, người như vậy mới có thể chứng được thánh đạo. Chúng ta muốn cầu
vãng sanh, thì tâm cũng phải chính trực, không có tâm hư ngụy xu nịnh, như vậy
mới có thể tương ưng với Tịnh Độ. Cho nên “ninh táng thân mạng, hứa vô hư mậu”.
Anh giết tôi thì được, muốn tôi nói lời giả dối thì không được. Phải có khí
khái làm người chính trực như thế, thà bỏ thân mạng, quyết chẳng phạm giới.
Không nói lời giả dối, tuyệt đối không lừa gạt người khác. Mà nay lại “vi
tâm bội tưởng”, trái với tâm tưởng của mình mà “điều cuống ư nhân”,
nói dối gạt người khác, khiến họ hiểu sai, tưởng lời quý vị nói là chân thật, đặc
biệt là quý vị nói pháp hơn người. Bản thân mất đi “thiện lợi”, lợi ích
tốt đẹp; mà đương nhiên đối với người khác cũng có tổn hại rất lớn, cho nên “tội
lỗi và não hại người khác sâu nặng, nên Phật chế giới”. Đây là chế ý của giới
không vọng ngữ. Tiếp theo chúng ta học tập nguyên văn trong Sa Di Thập Giới Oai
Nghi Lục Yếu của Đại sư Ngẫu Ích:
“Nhược vị chứng tứ quả, vọng ngôn dĩ chứng; vị đắc
tứ thiền, vọng ngôn dĩ đắc; vị ngộ đạo, vọng ngôn dĩ ngộ; cập vọng ngôn thiên
lai, long lai, quỷ thần lai đẳng, hư nhi bất thật, cuống hoặc thế nhân, danh đại
vọng ngữ, phạm trọng tội, thất Sa-di giới, bất thông sám hối”.
Xem
đến đây trước, đây là định nghĩa tội tướng của đại vọng ngữ. Ở đây nói nếu chưa
chứng được tứ quả, tứ quả là thánh quả: Sơ quả Tu-đà-hoàn, nhị quả Tư-đà-hàm,
tam quả A-na-hàm, tứ quả A-la-hán; đều là những vị thật sự có khả năng đoạn phiền
não. Sơ quả đoạn được kiến hoặc, kiến hoặc có 88 phẩm, khái quát lại có năm loại
lớn: Thân kiến, biên kiến, kiến thủ kiến, giới thủ kiến, tà kiến. Đây là sự sai
lầm về kiến giải, phàm phu đều có đủ. Ví dụ như “thân kiến”, phàm phu chúng ta
từ vô thỉ kiếp đến hiện tại, đều chấp trước thân này là ta, trên thực tế thì
thân này không phải ta, thân này là sắc pháp, sắc pháp chính là những gì thuộc
về vật chất, nó là tứ đại giả hợp, nhân duyên giả hợp. Tứ đại là địa thủy hỏa
phong, “địa đại” chính là những bộ phận rắn chắc như xương, thịt, v.v…, lông
tóc đều là địa đại; “thủy đại” là bộ phận dịch thể, chất lỏng, mồ hôi, nước tiểu,
máu, v.v… trên thân của chúng ta; “hỏa đại” là nhiệt độ cơ thể của chúng ta,
chúng ta còn sống thì thân nhiệt bình thường, hơn 36 độ, cao hơn thì hỏa đại mất
điều hòa, bị sốt cao, quá thấp cũng không bình thường, đó là thương hàn, sau
khi chết rồi thì hỏa đại không còn nữa, thi thể liền lạnh buốt; “phong đại” là
hô hấp, chuyển động của thể khí, có hô hấp (phong đại) thì người này còn sống,
không còn phong đại thì chết. Đương nhiên người đã nhập Tứ Thiền thì cũng không
còn hô hấp nữa, lỗ chân lông trên thân đều khép lại, họ không còn phong đại nữa.
Cho nên trời Tứ Thiền sẽ không bị nạn gió, có thể khiến cho phong đại, cũng như
hô hấp dừng lại. Vì vậy, tứ đại địa thủy hỏa phong này cấu thành nhục thể của
chúng ta, không phải là ta, nhưng phàm phu chúng ta lại chấp trước nó là ta,
đây là “thân kiến”. Nhân duyên tan rồi thì ta không còn nữa, ta đi đâu rồi?
Không tìm được nữa, thì ra là vô ngã. Vậy khi hợp lại chẳng phải là có ta sao?
Thân thể được hợp lại cũng là thể giả hợp. Tiểu-thừa có thể quán như vậy, quán
thân bất tịnh, quán pháp vô ngã, thì họ có thể giải thoát, có thể đoạn kiến hoặc
rồi.
Bồ-tát
Đại-thừa có thể biết được duy thức của vạn pháp, thân tứ đại giả hợp là một “tướng
phần”, là tướng phần hiển hiện từ thức thứ tám. Chủng tử trong thức thứ tám
không ngừng khởi hiện hành, hiện hành rồi lại mất, lại hiện hành rồi mất, niệm
niệm đều sanh diệt trong từng sát-na. Trong Kinh Bồ Tát Xử Thai, Di Lặc Bồ-tát
nói: “Một khảy ngón tay có 32 ức trăm ngàn niệm, niệm niệm thành hình, hình đều
có thức”. Chữ “thức” này là thức thứ tám, “hình” chính là sắc pháp, “thức” là
thuộc về tâm pháp, sắc pháp và tâm pháp đồng thời hiển hiện, trong một sát-na
hiện ra, một sát-na sau thì diệt, một sát-na tiếp lại sanh ra, vô lượng kiếp đều
sanh diệt không ngừng như vậy. Lão Hòa thượng đưa ra ví dụ là đổi phim ảnh, chiếu
điện ảnh đổi âm bản, một tấm nối tiếp một tấm, không có tấm nào thật sự giống tấm
nào, nhưng nó tương tự, tương tự tướng tương tục. Đại-thừa Bồ-tát có thể quán
chiếu sâu như vậy, Ngài biết thân đó đang sanh diệt trong từng sát-na, làm gì
có một cái ta? Ta là ý tự tại, có ý tự tánh; nó không có tự thể, tự tánh, nó
không thể tự tại, nó đang sanh diệt liên tục, là vô thường, vô ngã. Cho nên từ
pháp quán của Đại-thừa mà thâm nhập, Ngài cũng có thể biết được thân này không
phải ta, đoạn thân kiến rồi, đương nhiên những kiến hoặc khác cũng đoạn như vậy.
Vì
vậy, bất luận là bắt đầu từ pháp quán của Tiểu-thừa, hay bắt đầu từ pháp quán của
Đại-thừa, cuối cùng đoạn được kiến hoặc thì chứng sơ quả, Tiểu-thừa gọi là sơ
quả, với Đại-thừa Viên giáo mà nói chính là Sơ-tín-vị, Biệt giáo chính là Sơ-trụ-vị.
Những vị này đều là thánh nhân, thăng cấp lên, cảnh giới A-la-hán thì cao hơn.
Bản thân không thật sự chứng đắc, cũng tức là niệm niệm của quý vị đều
không giữ quan niệm “vô ngã” này, quý vị
không thực hành như vậy, quý vị vẫn có quan niệm về “ngã”, vẫn còn ý niệm tự tư
tự lợi, chứng tỏ quý vị không chứng đắc. Điều này không phải dựa vào suy nghĩ của
quý vị, mà thông qua chân thật tu hành, tu quán, để phá trừ đi vọng tưởng về
“ngã” của ngã chấp này của chúng ta, kiến hoặc này chính là vọng tưởng. Nếu
không chứng đắc điều này, “mà nói dối đã chứng”,
tôi đã chứng đắc rồi, chính mình biết chưa chứng đắc mà nói chứng đắc rồi, như
vậy chính là đại vọng ngữ.
“Chưa đắc tứ
thiền mà nói dối đã đắc”. Tứ thiền bát định này thuộc về thiền
định của thế gian, định của A-la-hán là cửu thứ đệ định của xuất thế gian. Tứ
thiền bát định cũng không phải là người thông thường có thể chứng đắc, tức là
người thông thường rất khó chứng được sơ thiền. Đừng nói đến sơ thiền, định
trong Dục giới cũng không dễ gì chứng được. Dục giới chứng được cao nhất là tầng
trời thứ sáu, trời Tha Hóa Tự Tại, định của các Ngài gọi là “vị-đáo-định”, tức
là chưa chứng được sơ thiền thật sự, nhưng định của họ đã rất lợi hại rồi,
trong Dục giới không có ai có thể hơn họ, phước báo rất lớn. Nhưng tri kiến bất
chánh, phiền não chưa đoạn, cho nên đã làm ma vương, chủ trời của trời thứ sáu
chính là ba tuần. Ma vương, phước báo rất lớn, muốn khống chế Dục giới, định lực
của họ lớn, thần thông cũng rất lớn, trong định có thể phát thần thông. Định
này thì phàm phu thông thường đều không đạt được, vậy huống chi là định của sơ
thiền, huống chi là định của tứ thiền, huống chi là tứ không định, tứ không định
là Vô Sắc giới rồi, tứ thiền là Sắc giới, tứ không là Vô Sắc giới.
Đương
nhiên thánh nhân chứng được sơ quả trở lên, họ chỉ có thể ở Sắc giới, như thánh
nhân chứng tam quả thì ở trời Ngũ Bất Hoàn trong Sắc giới, tu hành ở đó, ra khỏi
đó thì xuất tam giới rồi. Bởi vì có sắc thân thì dễ tu hành, ở Vô Sắc giới thì
không có sắc thân, chỉ có tâm pháp, định công của họ rất mạnh, diệt hết sắc
pháp rồi, chỉ còn lại tâm pháp, vậy thì không dễ, không dễ gì tu hành. Trên thực
tế thì họ vẫn dùng tâm của ý thức thứ sáu, tuy đã diệt sắc pháp bên ngoài,
nhưng trong ý thức thứ sáu của họ vẫn hiện ra tướng phần; kiến phần, tướng phần
đều có, không thể nào không có, đều nằm trong pháp hữu vi. Bởi vì bản thân của
ý thức là pháp hữu vi, sát-na sanh sát-na diệt, pháp hữu vi, chưa chứng được vô
vi, chưa chứng được chân như, nhưng họ tưởng bản thân mình đã chứng được, cho
nên nhầm lẫn rồi, tưởng đó là cảnh giới Niết-bàn, đến sau này vừa sa ngã thì đọa
lạc rồi. Cuối cùng rồi cũng có một ngày mất đi công phu định lực, bởi vì đó là
pháp hữu vi, có sanh có diệt, sau tám vạn đại kiếp thọ mạng, sau tám vạn đại kiếp
ở trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, định lực mất rồi thì sẽ rơi xuống Dục giới. Nếu
vì vậy mà bánh pháp, báng Phật, vậy thì đọa địa ngục. Cho nên chưa thật sự chứng
được những cảnh giới này, mà bản thân nói dối là mình đã đạt được thiền định rồi.
Tiếp
theo là “chưa ngộ đạo”,
ngộ đạo là chỉ minh tâm kiến tánh, khai ngộ rồi. Sự khai ngộ này chủ yếu là tri
kiến của họ giống Phật rồi, tri kiến giống Phật, nhưng không chứng tỏ họ chắc
chắn đã chứng quả, họ có thể vẫn là phàm phu, cũng như Quốc sư Thanh Lương, tổ
thứ tư của Hoa Nghiêm tông đã nói “đại tâm phàm phu”. Người này khai ngộ,
ngộ tri kiến của Phật rồi, tri kiến của họ giống như Phật vậy, nhưng chưa đoạn
phiền não, đoạn phiền não phải nhờ vào tu, họ chỉ ngộ nhưng chưa khởi tu. Cho
nên ngộ rồi khởi tu, vậy thì đương nhiên đều chính xác, bởi vì họ dùng Phật tri
Phật kiến để chỉ dẫn tu hành, như vậy thì mau chóng được minh tâm kiến tánh.
Trong Thiên Thai tông dùng Lục-tức-Phật của Viên giáo để phán, họ thuộc về
Danh-tự-tức-Phật, người trong Danh-tự-vị, Danh-tự-vị là đã khai ngộ rồi. Tri kiến
của họ giống như Phật vậy, cho nên sự tu hành dụng công của họ hoàn toàn là
dùng Phật tri Phật kiến, nhất tâm tam quán để tu. Đây là điều không đơn giản,
như Đại sư Ngẫu Ích, Ngài chính là “Danh-tự-vị trung chân Phật nhãn”,
Ngài nói mình là người trong Danh-tự-vị, vẫn chưa thật sự đạt đến Quán-hạnh-vị.
Công phu của Quán-hạnh-vị thì thuần thục, công phu nhất tâm tam quán này đã thuần
thục, có thể hàng phục phiền não; người trong Danh-tự-vị vẫn chưa phục đoạn phiền
não, hay nói cách khác, họ vẫn sẽ khởi tham sân si. Nhưng trí huệ của họ rất
cao, hết lòng cầu sám hối, phiền não khởi lên rồi lập tức sám hối, công phu dần
dần thành tựu, thì hàng phục được phiền não, liền vào Quán-hạnh-vị.
Đại
sư Trí Giả chính là người trong Quán-hạnh-vị, cho nên khi Ngài vãng sanh nói
mình vãng sanh ngũ phẩm vị, tức là ngũ phẩm Đệ-tử-vị, là thuộc về Quán-hạnh-vị.
Người này, chính là đại đạo sư của người thế gian chúng ta, bởi vì tâm và tri
kiến của Ngài giống y như Phật, sự tu hành của Ngài cũng gần như Phật, bởi vì
đã hàng phục được phiền não rồi, quý vị nhìn bề ngoài thì thấy Ngài không có
phiền não, vậy chẳng phải là giống Phật rồi sao? Ngài hàng phục phiền não không
chỉ là hàng phục kiến tư phiền não, mà trần sa, vô minh phiền não cũng đã hàng
phục được rồi, niệm niệm tương ưng với nhất tâm tam quán, đó chính là tri kiến
của Phật, đây chính là đại đạo sư rồi, đó chính là Phật sống rồi. Nếu có thể
dùng công phu quán hạnh này đoạn được phiền não, chính là Tương-tự-vị-Phật.
Tương-tự-vị là đoạn kiến tư phiền não; trong tam hoặc, trước tiên đoạn kiến tư
hoặc, chưa đoạn trần sa, vô minh hoặc, đây là Tương-tự-vị-Phật. Thiền sư Huệ
Tư, sư trưởng của Đại sư Trí Giả, Ngài nói mình đã là người trong Tương-tự-vị rồi,
vậy thì công phu của Ngài bằng với A-la-hán, có thần thông rồi, sáu loại thần
thông của A-la-hán đều hiện tiền. Bên trên chính là Phần-chứng-vị, đó là Pháp
thân Đại sĩ, đó gọi là Phần-chứng-vị-Phật, Viên giáo là Sơ-trụ-vị Bồ-tát, Biệt
giáo là Sơ-địa Bồ-tát trở lên. Các Ngài có khả năng thị hiện làm Phật trong
trăm giới, có thể thị hiện giống như Thích Ca Mâu Ni Phật trong một trăm thế giới,
dùng thân Phật có 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp để độ hóa chúng sanh. Nhị-trụ thì có
thể thị hiện Phật trong một ngàn thế giới, cứ thế tính tiếp.
Đây
đều là cảnh giới của thánh hiền, ngộ đạo không phải là việc dễ dàng. Chúng ta
niệm Phật niệm đến nhất tâm bất loạn, niệm Phật tam muội rồi, đều không thể gọi
là ngộ đạo, đó chỉ là dùng công phu định lực tạm thời hàng phục phiền não mà
thôi. Nếu công phu này dựa vào tự lực thì không thể ra khỏi tam giới, chỉ có thể
nương nhờ tha lực, A Di Đà Phật nhiếp thọ quý vị, quý vị được niệm Phật tam muội
thì chắc chắn vãng sanh, A Di Đà Phật nhất định nhiếp thọ quý vị, thậm chí một
ngày một đêm được nhất tâm bất loạn cũng chắc chắn vãng sanh. Nhưng chưa ngộ đạo,
chưa đạt được minh tâm kiến tánh, vậy nếu quý vị nói dối đã ngộ đạo, khai ngộ rồi,
thì đó là đại vọng ngữ.
Còn
nói bản thân có thần thông, nói dối là chư thiên đến rồi, rồng đến rồi, quỷ thần
đến rồi, “quý vị xem quý vị xem họ đến rồi, họ đến cúng dường tôi”, gạt người,
“hư dối không thật, lừa gạt mê hoặc người đời”. Người ta không biết quý
vị là thật hay giả, nhìn thấy quý vị rất trịnh trọng nghiêm túc mà nói: “Quỷ thần
đến rồi”. Còn gọi tên của quỷ thần. “Ây da, người này không đơn giản”. Như vậy
là đại vọng ngữ. Thần thông này, đương nhiên có một chút công phu thiền định
thì sẽ có thần thông, mà chứng quả thì lại càng có thần thông. Đương nhiên
không nhất định như vậy, chứng quả cũng không nhất định có thần thông. Như người
chứng đắc A-la-hán, có ba bậc A-la-hán: Thứ nhất là “người huệ giải thoát”, thứ
hai là “người câu giải thoát”, thứ ba là người giải thoát được “tam minh lục
thông”. Người được tam minh lục thông mới là A-la-hán, tức là A-la-hán đạt được
lục thông: Thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, thần
túc thông, lậu tận thông. Hai bậc trước không nhất định có thần thông, đặc biệt
là người huệ giải thoát, họ chỉ có đủ trí huệ, dùng trí huệ để cắt đứt phiền
não, nhưng định lực của họ vẫn chưa đủ, càng không có thần thông; người câu giải
thoát có định, định huệ đầy đủ, gọi là câu giải thoát, họ có thể nhập định,
nhưng họ cũng không có thần thông. Hoặc là thần thông không cách nào so sánh với
người tam minh lục thông, bởi vì trong thiền định họ sẽ cảm phát một chút thần
thông, giống như người ở trời Tứ Thiền, người được tứ thiền cũng có một chút thần
thông. Đây đều là những pháp hơn người.
Nếu
không có được những thần thông như thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm
thông, v.v… Giống như nhìn thấy chư thiên và rồng đến rồi, đây chính là thiên
nhãn; thiên nhĩ, nghe được chúng sanh nào đó trên sao hỏa đang nói chuyện gì.
Như Luật tạng ghi chép Tôn giả Mục Kiền Liên có thần thông, Ngài nghe được âm
thanh của một con voi trời (voi lớn) xuống sông tắm trên trời Đao Lợi, Ngài
nghe rồi nói với người khác, người khác cho Ngài là đại vọng ngữ. Kết quả là Phật
ấn chứng cho Ngài, Mục Kiền Liên nói không sai, thầy ấy thật sự nghe được. Đây
là pháp hơn người, nhưng Phật bảo: Mục Kiền Liên, về sau không được phép nói nữa,
nói nữa thì phạm giới. Đương nhiên không phải là phạm giới đại vọng ngữ, bởi vì
Ngài nói đúng sự thật, không phải nói hư dối, nên sẽ phạm tội hạ phẩm. Đặc biệt
là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni xuất gia chúng ta đối với người chưa thọ giới Cụ túc, Thức
-xoa-ni, Sa-di, Sa-di-ni, bao gồm chúng tại gia đều là chưa thọ giới Cụ túc,
nói với họ những pháp hơn người của chính mình, tuy là nói đúng sự thật, nhưng
cũng phạm giới, phạm tội ba-dật-đề. Cho nên tốt nhất là không nói gì cả, nói ra
để làm gì? Đây là làm rối loạn lòng người mà thôi, không cần thiết. Nói thì nói
chánh pháp, chỉ dạy người khác trì giới thế nào, tu định khai huệ thế nào, chỉ
nói điều này, dựa vào kinh điển mà nói, đừng nói lung tung, kinh giáo không dạy
thì chúng ta không nói, như vậy thì không có lỗi lầm.
Nếu
nói đại vọng ngữ hư dối không thật, lừa gạt mê hoặc người khác, thì “phạm tội
nặng”, tội thượng phẩm không thể sám hối, “mất giới Sa-di”. Nếu quý
vị thọ Bát Quan Trai giới, nói dối như như vậy thì mất giới thể của Bát Quan
trai giới. Thọ Ngũ giới, nói dối như vậy thì mất giới thể của Ngũ giới. Nếu quý
vị đồng thời thọ Ngũ giới, Bát Quan Trai giới, Bồ-tát giới, nói dối như vậy thì
mất cả giới thể của ba giới, bởi vì ba giới đều có giới đại vọng ngữ này. Bốn
điều giới sát đạo dâm vọng thông với tất cả các giới. Nếu tôi nói đại vọng ngữ,
vậy tôi mất giới nào? Trước đây tôi đã thọ Ngũ giới, trọn đời thọ Bát Quan Trai
giới, Sa-di giới, Tỳ-kheo giới, Bồ-tát giới tôi đã thọ hết, vậy thì mất tất cả
giới. Bởi vì tất cả các giới đều có bốn giới trọng. Mất giới thể thì “không
thông sám hối”, trong pháp Thanh-văn thì quý vị không cách nào khôi phục lại
giới thể của mình. Quý vị đã không thể thọ lại giới đắc giới, cũng không thể
thông qua sám hối khiến cho giới thể trở về thanh tịnh, trong pháp Thanh-văn
không có pháp này. Trong pháp sám Đại-thừa có thủ tướng sám, ví như lạy Chiêm
Sát Sám được luân tướng thanh tịnh, đó cũng là sự khai duyên đặc biệt. Nếu quý
vị đến Thái Lan, họ không thừa nhận. Họ cảm thấy không có Đại-thừa này: Kinh của
chúng tôi chính là Kinh A Hàm, làm gì có Kinh Chiêm Sát, Kinh Vô Lượng Thọ gì
đó, không có. Cho nên chúng ta được học Đại-thừa, đây là phước báo của chúng
ta. Sinh ra ở Trung Quốc là có phước báo rất lớn, bởi vì đây là người có chủng
tánh Đại-thừa, có thể tiếp nhận pháp Đại-thừa.
Đại-thừa
sám cũng phải được thấy hảo tướng mới có thể được thanh tịnh, sau đó mới có thể
thọ giới lại, không thọ giới lại thì vẫn không có giới thể. Ngoài Chiêm Sát
Sám, Chiêm Sát Sám gồm cả công năng đắc giới, trong Kinh Chiêm Sát, Địa Tạng Bồ-tát
nói: Nếu quý vị vì cầu giới, quý vị vì sám hối mà còn bái sám để cầu giới,
trong lúc được luân tướng thanh tịnh, thì tội cũng sám trừ, giới cũng đắc rồi.
Ví như quý vị muốn đắc giới Tỳ-kheo, thì đắc giới Tỳ-kheo. Trong những nghi thức
sám hối khác không có công năng này, cho nên pháp sám này rất thù thắng. Vì vậy,
Đại sư Ngẫu Ích, Đại sư Hoằng Nhất đã đặc biệt giới thiệu, nói rằng không thể
nào không gấp rút lưu thông Kinh Chiêm Sát này, nhất định phải mau chóng lưu
thông, đó là “thần đan cứu bệnh vào thời mạt, chẳng thể không gấp rút lưu thông”.
Cho nên ba năm trước tôi đọc được lời này, Đại sư Ngẫu Ích nói như vậy, tôi là
người sùng bái Đại sư Ngẫu Ích, Ngài nói phải mau chóng lưu thông, cho nên tôi
liền lưu thông. Đương nhiên cũng phải trả giá một chút, điều này tôi cũng sẵn
lòng tiếp nhận. Nghiệp chướng của chúng sanh là như vậy, muốn lưu thông chánh
pháp, chắc chắn sẽ có chướng ngại, nhưng chúng tôi sẵn lòng thay chúng sanh
gánh nghiệp, hủy báng tôi không sao, chỉ cần đừng hủy báng Địa Tạng Bồ-tát là
được rồi.
Nói
đến trường hợp không thông sám hối, nếu đối với Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, phải đặc
biệt nói thêm điều này một lần, đó là cho dù lạy Chiêm Sát Sám được luân tướng
thanh tịnh, nếu ban đầu quý vị có giới thể nhưng lại mất đi giới thể, phạm giới
trọng mất giới thể thì cũng không đạt được, cho dù được luân tướng thanh tịnh,
cũng chỉ được thân phận học hối Tỳ-kheo, học hối Tỳ-kheo-ni. Đây là bởi vì sự
tôn quý của Tăng bảo, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni thật sự tính trong Tăng số, Sa-di,
Sa-di-ni thì vẫn không tính là Tăng số, cho nên nếu phạm giới trọng này rồi, vậy
thì mãi mãi mất đi Tăng thể rồi, không có tư cách của Tăng bảo nữa. Nhưng sám hối
như vậy thanh tịnh rồi, thì không chướng ngại quý vị giải thoát, không chướng
ngại quý vị vãng sanh, dùng thân phận học hối cũng có thể vãng sanh. Đây là nói
đến tội tướng của đại vọng ngữ. Tiếp theo nói đến một sự khai duyên đặc biệt:
“Nhược công phu sảo sảo đắc lực, bất tri pháp tướng,
vị chứng quả đẳng, danh tăng thượng mạn, bổn vô khi cuống chi tâm, cố bất thất
giới. Nhiên tu thỉnh vấn sư trưởng tiên đạt, quyết trạch thị phi, ân cần hối
quá, xả kỳ hữu sở đắc tâm, tinh cầu chân chánh xuất yếu, phương miễn trầm trụy
nhĩ!”
Đây
là nói đến một sự khai duyên đặc biệt, chính là trường hợp tăng thượng mạn.
Không phải người này muốn lừa dối người khác, mà trong quá trình tu hành của họ,
khi “công phu sảo sảo đắc lực”, là tu có một chút công phu định lực rồi,
thậm chí có một chút huệ giải rồi, trí huệ hiện tiền, hình như đã có chút ngộ,
hoặc là đạt được một chút định, một chút khinh an, pháp hỷ, nếu là người nghiêm
túc tu hành thì đều có thể đạt được. Kết quả là họ “bất tri pháp tướng”,
bởi vì không nghiêm túc học tập kinh giáo, đặc biệt là những trình tự tu hành
này, cảnh giới của mỗi cấp bậc họ cũng chưa từng học, không biết những pháp tướng
này, cho nên nói bản thân đã chứng quả, hoặc được thiền định, được tam muội rồi,
hoặc đã khai ngộ, những điều này đều thuộc về “tăng thượng mạn”.
“Chứng
quả đẳng”, chữ “đẳng” ở đây bao gồm nói đắc tứ thiền, nói ngộ đạo, nói có
thần thông, v.v… như vừa rồi đã giảng. Thần thông của họ không phải là chính
mình tu thành, bởi vì họ có một số ý niệm muốn cầu thần thông, cho nên chiêu cảm
một số phi nhân, quỷ thần, họ liền tùy thuận tâm ý của quý vị, quý vị thích thần
thông, họ đến gia trì cho quý vị một chút. Trên thực tế, chúng ta nói rất nhiều
người tu được thần thông rồi, nhưng thần thông đó là giả, đều là quỷ thần dựa
thân. Thiên nhãn, thiên nhĩ gì đó, hình như họ cũng có, trên thực tế là không
phải của họ, quỷ thần thêm vào cho họ. Quỷ thần có khả năng này, họ mượn mắt của
quý vị, họ có thể khiến quý vị nhìn thấy những gì bình thường quý vị không nhìn
thấy, ngoài bức tường là gì, dưới đất là gì, họ giúp cho quý vị thấy được, thậm
chí họ khiến quý vị có tha tâm thông, biết được đối phương nghĩ gì. Mới bắt đầu
thì quý vị cảm thấy rất kỳ diệu, có phải là tôi đã chứng được thần thông rồi
không? Có phải tôi đã được sơ quả rồi không? Sơ quả thì có thiên nhãn thông,
thiên nhĩ thông; có phải tôi đã được nhị quả rồi không? Nhị quả thì có tha tâm
thông, túc mạng thông rồi, tam quả thì có thần túc thông, v.v…, cho rằng chính
mình chứng quả, thật ra là bị gạt rồi. Thậm chí là như thế nào? Tôi đã từng biết,
quỷ thần đến trêu chọc họ, nói với họ: Mấy giờ ngày mấy tháng mấy năm mấy con
vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, ta là Quán Thế Âm Bồ-tát. Một âm thanh
bên tai của họ, họ nghe rồi vui mừng khôn xiết, tưởng mình khi đó sẽ vãng sanh,
gọi điện thoại cho tôi, báo cáo biết trước ngày giờ rồi. Được, anh biết trước
ngày giờ, tôi cũng tùy thuận anh, được, tôi tổ chức cho anh, nào, mọi người cùng
nhau đưa anh vãng sanh. Nhưng đến lúc đó không đi, là giả, bị quỷ thần gạt rồi.
Vì sao quý vị bị quỷ thần gạt? Bởi vì quý vị có tâm cầu điều này, tâm không
thanh tịnh, không thành thật. Do đó, quỷ thần biết được, họ có tha tâm thông,
biết được tâm lý này của quý vị, đến trêu chọc quý vị một chút, khiến cho quý vị
khó xử, muốn vãng sanh lại không vãng sanh được, xem quý vị làm thế nào, thật xấu
hổ khi gặp người khác.
Cho
nên tâm này không thành thật, phải buông xả, cầu vãng sanh thì cầu như thế nào?
Tôi thành thật niệm Phật, niệm niệm không nghi câu Phật hiệu này, tịnh niệm tiếp
nối, tâm này chính là tâm vãng sanh thật sự. Còn xen tạp một chút gì, tôi muốn
vãng sanh lúc nào, tôi vui mừng hớn hở, những điều này đều là xen tạp, phá hoại
chánh niệm của quý vị rồi. Niệm mãi cho đến khi lâm chung, Phật tự nhiên hiện
tiền, cần gì quan tâm đến mấy giờ vãng sanh, khi niệm Phật không cần phải thêm
một ý niệm mấy giờ tôi vãng sanh, không cần thiết, đó gọi là vọng niệm, niệm đó
không phải là tịnh niệm, không tương ưng. Cho nên khi niệm Phật quý nhất là
thành thật, bốn chữ “thành thật niệm
Phật” nói ra thì dễ, nhưng làm thì không dễ. Đây đều thuộc về tăng
thượng mạn, anh ấy thật sự cũng không phải muốn dối gạt tôi, anh ấy nói với tôi
một cách rất chân thành trịnh trọng, cũng đã viết xong di chúc rồi, còn viết lá
thư cảm ơn rất dài cho tôi, cảm tạ ân dạy dỗ của sư phụ Định Hoằng gì gì đó,
con nhất định sẽ thừa nguyện tái lai để hộ trì sư phụ. Đây đều là tâm tăng thượng
mạn, nhầm lẫn rồi. Nếu thật sự vãng sanh, A Di Đà Phật đến nói với quý vị, đó
là thật, quý vị không thấy Phật mà chỉ nghe âm thanh, có thể đều là quỷ thần. Vậy
A Di Đà Phật đến nói với quý vị, quý vị cũng đừng nói với người khác, quý vị
nói với người khác làm gì? Có phải là “hy chiêu danh lợi”
mà trong đây nói đến không, quý vị mong rằng thông qua việc này được danh lợi
phải không? Người khác tán thán quý vị, cung kính quý vị, quý vị niệm Phật đã
niệm đến vãng sanh, là Bồ-tát sắp vãng sanh đến thế giới Cực Lạc rồi, thờ phụng
quý vị, thôi rồi, công phu lập tức bị phá hủy, ma chướng hiện tiền, cái gọi là
“trước ma” chính là như vậy. “Nhân vong tự tánh Di Đà Phật, dị niệm phân trì tổng
thị ma”, tâm tăng thượng mạn là rơi vào cảnh giới ma, nếu bản thân không có trí
huệ phân biệt, không ra khỏi thì rơi vào trong đó rồi. Cho nên vì sao trong
Kinh Kim Cang nhắc nhở chúng ta: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng”, đừng chấp
tướng sắc thanh hương vị xúc pháp, mà tu tất cả thiện pháp.
Chúng
ta trì giới niệm Phật là thiện pháp, thiện trong các thiện, cách tu như thế nào?
Phải dùng tinh thần của Kinh Kim Cang, lìa tất cả tướng, không chấp sắc thanh
hương vị xúc pháp mà trì giới niệm Phật, đây chính là Phật đạo. Không chấp sắc,
sắc tướng, A Di Đà Phật đến rồi, đó là sắc tướng, sắc tướng đó là hư vọng,
không phải thật có. Nhưng cũng không phải là không có, nói không có cũng không
đúng, là có mà không có, không có mà có, có đó là giống như có, là diệu hữu, mà
trong khi có là chân không. Vì sao vậy? Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến. Thức
nào? Thức thứ tám của quý vị biến ra. Bởi vì quý vị niệm Phật, tương ưng với
nguyện lực của A Di Đà Phật rồi, khi niệm đến nhất tâm bất loạn, có nguyện lực
của A Di Đà Phật gia trì, khiến cho chủng tử Phật trong thức thứ tám của quý vị
hiện hành, cho nên quý vị thấy được, trên thực tế là tướng phần của chủng tử
trong thức thứ tám hiện ra, quý vị không thể thật sự nhìn thấy thân Phật. Thấy
thân Phật thì tối thiểu phải chứng Viên giáo Sơ-trụ-vị trở lên mới thật sự thấy
thân Phật. Hiện nay phàm phu chúng ta chỉ có thể thấy được tướng phần hiện ra từ
thức thứ tám của mình, thế giới Cực Lạc cũng là tướng phần của thức thứ tám,
quý vị vãng sanh chỉ là vãng sanh đến tướng phần thế giới Cực Lạc trong thức thứ
tám. Cho nên sáu thức của quý vị duyên niệm đều là tướng phần của thức thứ tám
mà thôi, “không có các nỗi khổ, chỉ hưởng những niềm vui”, đúng vậy, thế
giới Cực Lạc là như vậy, đó toàn là thức thứ tám của quý vị hiện ra. Mà thức thứ
tám này là do 48 nguyện của A Di Đà Phật làm tăng thượng duyên, khiến cho cảnh
giới thế giới Cực Lạc của thức thứ tám hiện hành mà thôi, không có pháp chân thật
nào có thể đạt được. Nếu quý vị chấp trước có “ngã”, tôi nhìn thấy Phật rồi,
đây chính là hư vọng phân biệt, đây là phiền não tập khí của quý vị. Vì vậy, tốt
nhất là nhìn thấy cũng như chưa nhìn thấy, vẫn niệm A Di Đà Phật là được rồi.
Tùy thuận Phật hiệu, tịnh niệm tiếp nối, đừng tùy thuận phiền não tập khí phân
biệt đó.
Quý
vị phân biệt có tượng Phật mà nhãn căn nhìn thấy, nhãn căn đối với sắc trần,
đây là quý vị phân biệt. Thật ra nhãn căn và sắc trần đều là chủng tử của thức
thứ tám hiện ra, hiện ra cùng lúc. Bởi vì có sắc trần, cho nên có nhãn căn. Có
kiến phần và tướng phần, hiện ra cùng lúc, năng kiến và sở kiến, năng và sở hiện
ra cùng lúc, đó đều là thức thứ tám, đều là tâm của quý vị. Cho nên nói “duy tâm Tịnh-độ,
bổn tánh Di Đà”, không rời khỏi tâm của quý vị, đều là “duy tâm tự
hiện, cảm ứng đạo giao, cứu cánh phi tùng ngoại đắc”.
Vì vậy, quý vị phải hiểu rõ pháp tướng này, nhìn thấy rồi đừng sanh tâm mừng rỡ,
đừng quá phấn khởi, đừng quá kích động, sự cảm ứng đạo giao này rất tự nhiên.
Nước trong rồi thì trăng hiện, có gì đáng để kích động? Vừa động, ngược lại nước
không còn trong nữa, tâm thủy của quý vị động rồi. Động rồi, vậy thì tiếp theo
chính là ma, không phải là Phật nữa. Niệm thứ nhất là quý vị thấy Phật, không
sai, quý vị niệm ra Phật, quý vị lại mừng rỡ, vậy thì tâm dao động rồi, tôi nói
quý vị biết, thấy nữa thì không phải rồi, huống chi là chưa chắc quý vị có thể
thật sự nhìn thấy. Nghe âm thanh cũng không tính, hoặc là nhìn thấy trên trời
hiện chữ gì ra, ngày mấy tháng mấy năm mấy quý vị vãng sanh, những điều đó đều
không đáng tin, đừng vui mừng quá sớm. Rất có khả năng đó là ma đến khảo nghiệm
quý vị, xem quý vị có tăng thượng mạn hay không. Quý vị tùy thuận tăng thượng mạn
của quý vị, đây là phiền não, hay là tùy thuận tịnh niệm, tịnh niệm tiếp nối,
như như bất động, không chấp vào tướng thì tốt. Quá vui mừng mà nói cho người
khác nghe, để mọi người đều biết, chấp tướng, chấp tướng thì bị ma chướng.
Cho
nên tu hành thật sự phải có thiện tri thức nhắc nhở thường xuyên, có khi đã lâu
rồi không nghe lời nhắc nhở thì sẽ không sáng suốt, tưởng mình đã rất tài giỏi,
như vậy cũng không được. Cho nên người công phu có chút đắc lực, đều xuất hiện
ngưỡng cửa này để bước qua, muốn qua ngưỡng cửa này phải dùng trí huệ. Trí huệ
cũng không cần nói quá cao sâu, chính là câu “bất thủ ư tướng, như
như bất động” trong Kinh Kim Cang, dựa vào trí huệ này. Kinh Vô Lượng Thọ
nói: “Quán pháp như hóa, tam muội thường tịch”, pháp này như huyễn như
hóa, pháp là gì vậy? Tất cả cảnh giới tướng, đương nhiên cũng bao gồm tướng của
tâm quý vị, đều như huyễn như hóa, hư vọng không thật, vô thường, vô ngã. Quý vị
quán như vậy, tam muội của quý vị mới có thể thường tịch, nếu không thì tam muội
của quý vị sẽ không tịch được, sẽ dao động.
Những
người tăng thượng mạn này, bản thân họ cũng không biết, biết rồi thì họ sẽ
không tăng thượng mạn nữa. Đây là tâm mạn trong tham sân si mạn, một loại của
tâm “mạn”, cho nên đó là tư hoặc, tư hoặc của kiến tư phiền não, ngang bằng với
tham sân si, tiếp theo chính là mạn. Mà tu hành thì tâm “mạn” là khó đoạn nhất,
bởi vì khó nhận biết nhất. Biết được chính mình ngạo mạn thì đã không quá ngạo
mạn nữa, mà người không biết bản thân ngạo mạn mới thật sự là ngạo mạn. Quý vị
nói với họ, họ cũng không tiếp nhận, đặc biệt là người tu hành đã có công lực,
có định lực, có phước báo, còn có chút trí huệ, hạng người này khó thuyết phục
nhất, họ không nghe quý vị nói, họ tưởng bản thân mình đã khá lắm rồi, như vậy
thì rất khó. Những người không có phước báo, không có định lực, không có trí huệ
thì tương đối dễ độ, vừa nói thì họ nghe theo rồi. Họ đã tu có công lực nhất định,
quý vị muốn độ họ thì không dễ gì, nền tảng của họ rất vững chắc, động họ một
cái cũng không được.
Vì
vậy, tu hành phải xây dựng tri kiến chính xác là điều rất quan trọng. Nếu tri
kiến sai lầm rồi, quý vị cứ thuận theo tri kiến này mà tu, tu đến khi có định lực
nhất định, quý vị muốn quay lại thì rất khó, thậm chí sau cùng trở thành “tà định
tụ”. Trong Kinh Vô Lượng Thọ nói, có chánh định tụ, có tà định tụ, có bất định
tụ. Chánh định tụ thì nhất định chứng đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, chắc
chắn thành Phật; tà định tụ thì tuyệt đối không thể thành Phật, chắc chắn vào
tà đạo; bất định tụ thì phải xem duyên của họ rồi, tùy thuận thiện tri thức
chánh định tụ, thì họ dẫn dắt mình đi đến chánh định tụ, chỉ cần dụng công đắc
pháp, thì họ có thể khá thuận lợi trên con đường bồ-đề. Tà định tụ thì rất khó
xoay chuyển lại, gọi là “xả thân thì dễ, xả kiến mới khó”.
Lấy mạng của họ thì họ cũng có thể bỏ, quý vị giúp họ buông bỏ tri kiến của
mình, họ không chịu bỏ, họ cho họ là đúng. “Đây chính là quả vị, đây chính là
khai ngộ, đây chính là cảnh giới thành Phật”, họ đã nhận định điều này, tưởng vọng
là chân thì phiền phức rồi, thật sự sẽ không bao giờ thấy được. Vì vậy, đối với
người sơ học chúng ta mà nói, nghe kinh nghe pháp vô cùng quan trọng, xây dựng
tri kiến đúng đắn, sau đó tùy thuận tri kiến đúng đắn mà tu, không dễ gì bị sai
lệch. Bản thân tu mù luyện đuôi đã mấy chục năm, muốn quay đầu lại thì cơ bản
là không thể nào, đời này đã bị hủy mất rồi, nguyên nhân chính là vì sự tăng
thượng mạn này.
Cho
nên vì sao tôi phải phát tâm bế quan, đương nhiên 50% là vì chính mình phải tu,
phải chứng; 50% vẫn phải vì tương lai độ chúng sanh. Bản thân phải tu chứng, đó
là vì sao? Chính mình có định huệ chân thật, có thể hàng phục phiền não, đoạn
trừ phiền não, như vậy tôi mới biết được điều nào là chính xác, mới có thể cho
mọi người một số chỉ dẫn hướng đến tương lai, không đến nỗi chỉ lệch hướng. Bản
thân phải đi qua con đường này, mới biết được trong quá trình đó xuất hiện hiểm
hóc gì, phải vượt qua như thế nào. Hiện nay tôi đều đọc trên sách vở, chỉ là
con vẹt học nói, không có tu chứng. Quý vị nói niệm Phật tam muội, tôi có thể
nói cho quý vị nghe pháp tướng, có thể giảng Kinh Vô Lượng Thọ, nhưng bản thân
tôi chưa tu chứng, quá trình này tu như thế nào thì tôi không cách nào nói cho
mọi người biết, bởi vì bản thân tôi chưa thực hành, cho nên tôi phải về thực
hành, thực hành rồi mới trở thành một người từng trải, tôi mới có thể chỉ dẫn
người khác.
Điều
thứ hai, ngoài việc tiếp dẫn những đồng tu của Tịnh Độ tông, duyên Tịnh Độ của
mọi người sâu, cho nên tin sâu Tịnh Độ, lòng tin này không thay đổi thì tốt vô
cùng, nhưng trong Phật giáo có rất nhiều rất nhiều người không nhất định tương
ưng với Tịnh Độ, hoặc là họ không thể tin Tịnh Độ. Ví dụ như học Duy Thức tông,
họ cho rằng tôi chỉ cần tiếp tục tu thì có thể chứng chân như, chuyển tám thức
thành bốn trí là được rồi, không cần vãng sanh Tây Phương, Tây Phương chỉ là một
tướng phần trong thức thứ tám của tôi, không cần vãng sanh, họ có tri kiến này,
quý vị phải làm sao xoay chuyển họ; người học Hoa Nghiêm cho rằng: Tôi trực tiếp
vào nhất chân pháp giới, tầng thứ 13 của thế giới Hoa Tạng là thế giới Cực Lạc,
vậy tôi đến được thế giới Hoa Tạng, thì thế giới Cực Lạc tự nhiên ở trong đó,
không cần vãng sanh; người tu thiền cho rằng: Tôi minh tâm kiến tánh, kiến tánh
thành Phật, còn thù thắng hơn quý vị, quý vị phải vãng sanh mới thành Phật, tôi
đây trực tiếp kiến tánh thì thành Phật. Rất nhiều những tri kiến như vậy, quý vị
làm sao có thể giúp họ? Cho nên chính mình vẫn phải thâm nhập kinh tạng. Xem
như bản thân giải quyết được vấn đề của mình rồi, vẫn phải đọc kinh điển của
các tông phái khác, để giúp đỡ người của các tông phái khác, cho nên thời gian
mười năm rất eo hẹp, phải rất dụng công mới có thể đạt được mục tiêu.
Cho
nên tôi xin nghỉ phép với mọi người, nghỉ phép 10 năm, không phải là rời khỏi mọi
người, tôi biết có một số người chắc là cảm thấy có một chút thất vọng, sao
Pháp sư Định Hoằng rời xa chúng ta rồi? Không có đâu, tôi chỉ xin phép tạm thời,
sau khi hết phép tôi vẫn trở lại. Mười năm này mọi người hãy tu thật tốt, dựa
vào gì để tu? Tôi đã giảng cho mọi người về “trình tự tu học của tịnh nghiệp
tam phước” rồi, cứ tu như vậy, người thật sự dụng công thì có thể được niệm Phật
tam muội. Còn về việc độ người khác, thì tùy duyên của quý vị, quý vị đạt được
niệm Phật tam muội trước rồi hãy tính, giải quyết việc lớn vãng sanh của chính
mình trước rồi hãy tính. Những việc còn lại thì tùy duyên độ chúng, không phải
không độ, mà tùy duyên độ, có duyên thì độ, không có duyên thì không cần phan
duyên. Chung quy là quý vị có bao nhiêu trí huệ và phước báo, thì có thể độ được
bấy nhiêu chúng sanh, việc này tương ưng với phước huệ của chính quý vị.
Vì
vậy, sự tăng thượng mạn tồn tại rộng khắp trong giới Phật giáo, tu hành, những
người này rất nhiều rất nhiều, người thật sự có thể tu hành đúng như thật mà được
thành tựu, thì ít như lông phụng sừng lân. Lão Hòa thượng Hư Vân thời cận đại
tu hành đúng như thật, Ngài thật sự có chứng ngộ; lão Hòa thượng Quảng Khâm ở
Đài Loan chứng ngộ rồi, tu hành đúng như thật. Những người thông thường, luôn
là những người rất dụng công tu hành Phật pháp, nhưng bởi vì tri kiến sai lệch,
bản thân đi lệch rồi mà cũng không biết, nếu không có người chứng đắc và tri kiến
cao hơn họ, thiện tri thức cao hơn, viên mãn hơn để chỉ điểm họ, thì họ rất khó
quay đầu lại. Những người này không có tâm dối gạt, họ nói mình đã chứng đắc được
gì, ngộ được gì rồi, đương nhiên như vậy không tính là phạm giới đại vọng ngữ,
bởi vì họ không nói trái với lòng mình. Họ thật sự nghĩ như vậy: “Tôi ngộ rồi,
tôi đã chứng đắc tam muội, tôi như vậy là chứng quả rồi”, bản thân họ thật sự
tưởng là như vậy, không có tâm dối gạt cho nên không tính là phạm giới, vì vậy
không mất giới thể. Nhưng điều này không phạm tội thượng phẩm mà phạm tội hạ phẩm,
vẫn có tội, tăng thượng mạn, chỉ dẫn sai lầm cho người khác. Đây là phạm giới,
tội hạ phẩm, nhưng tội nghiệp đạo vẫn rất nặng, vì sao vậy? Quý vị có thể sẽ dẫn
dắt một nhóm người đi vào tà đạo, vậy là đoạn Pháp thân huệ mạng của người
khác, nghiệp đó rất nặng, nhân quả rất nặng.
Vì
vậy, nếu quý vị thật sự cảm thấy bản thân có sự chứng ngộ, ví dụ như quý vị cảm
thấy “tôi biết trước ngày giờ, có thể vãng sanh rồi”, đây cũng xem như là sự chứng
ngộ nhỏ, không gọi là ngộ, gọi là chứng, chứng gì vậy? Chứng đắc vãng sanh. Là
thật hay giả? Quý vị đừng công bố ngay, quý vị công bố ra thì ma chướng lập tức
hiện tiền, thật cũng sẽ biến thành giả. Phải làm sao? “Tu thỉnh vấn sư trưởng
tiên đạt, quyết trạch thị phi”, quý vị phải hỏi thiện tri thức, người tinh
thông, người biết được pháp tướng, ví dụ như quý vị nói quý vị có thể tự tại
vãng sanh, người nào có thể tự tại vãng sanh quý vị có biết không? Người tu được
niệm Phật tam muội thì tự tại vãng sanh, biết trước ngày giờ. Niệm Phật tam muội
này tối thiểu phải một ngày một đêm nhất tâm bất loạn, người này được nhất tâm
bất loạn rồi, công phu của họ vẫn phải duy trì, mới có thể biết trước ngày giờ,
nếu không thì họ vẫn có thể không biết, nhưng cuối cùng họ cũng được vãng sanh,
một ngày một đêm nhất tâm bất loạn thì sau cùng có thể vãng sanh, nhưng chưa chắc
biết trước ngày giờ, chưa chắc tự tại vãng sanh.
Tự
tại vãng sanh thì phải đủ phước, phước báo rất lớn, đây luôn là điều mà người
nghiêm trì giới luật đạt được. Như Thiện Quả Lâm của chúng ta, đầu năm có một vị
lão Bồ-tát Lý Mỹ Huệ vãng sanh, rất nhiều người có mặt phải không? Có đưa tiễn
không? Tôi đọc báo cáo của mọi người viết cho tôi, bà biết trước ngày giờ, bà
biết trước ngày giờ một ngày, ngày 4 tháng 2 nói ngày mai vãng sanh. Lúc đó tôi
dẫn Tăng đoàn đi Ấn Độ rồi, chưa trở về, lão Pháp sư Hoành Minh dẫn dắt mọi người
niệm Phật đưa tiễn bà. Bà là người như thế nào? Năm ngoái, bà ở chỗ chúng ta thọ
Bát Quan Trai giới trọn đời, trì giới rất nghiêm túc. Người trì giới có phước
báo, đặc biệt là Bát Quan Trai giới, thêm nữa là bà niệm Phật rất chân thành khẩn
thiết, đếm chuỗi niệm Phật, đếm số như vậy. Có bệnh cũng không muốn đến bệnh viện,
muốn đến Thiện Quả Lâm để vãng sanh, bà buông xả được, đối với thân thể, với thế
giới này đều không tham luyến, sau cùng vãng sanh rất tự tại, nghe nói hình như
là ngồi trên ghế vãng sanh. Vậy thì rất tốt, đây chính là tấm gương điển hình của
người trì giới niệm Phật, chứng minh cho đồng tu Thiện Quả Lâm chúng ta, hình
như bà hơn 80 tuổi rồi, một vị lão Bồ-tát. Như vậy thì khá tự tại rồi, lâm
chung rất tỉnh táo, còn có thể biết trước một ngày, tuy là công phu không cao lắm,
nhưng cũng không phải đơn giản. Nếu quý vị có thể biết trước hai tháng trở lên,
ba tháng trở lên thì rất xuất sắc rồi, vậy là công phu còn cao hơn bà. Trì giới
tinh nghiêm, niệm Phật sau cùng được thượng phẩm vãng sanh, mới có thể vãng
sanh tự tại như thế.
Cho
nên người như vậy có thể hàng phục phiền não, sẽ không khởi phiền não, dùng
cách phán xét của Đại sư Ngẫu Ích trong Di Đà Yếu Giải, người được nhất tâm bất
loạn, họ sẽ không khởi kiến tư phiền não nữa. Quý vị nghĩ xem, họ hàng phục phiền
não rồi, đây là cách phán xét tương đối khắt khe về nhất tâm bất loạn, trên thực
tế họ đã được sự nhất tâm bất loạn, công phu thành phiến. Lão Hòa thượng cũng
dùng cách phán xét này, người được công phu thành phiến, Phật hiệu của họ không
gián đoạn, có thể hàng phục được phiền não. Vì vậy, họ không nổi giận, không
kích động, không có tham ái, tham sân si mạn đều có thể hàng phục được rồi, con
người khiêm tốn, không có tâm ngạo mạn, cũng không nghi ngờ. Họ sẽ không nghi
thần nghi quỷ nghi người, cũng không nghi ngờ thánh giáo, và không hoài nghi sợ
rằng chính mình không thể vãng sanh, đều không nghi. Sự nghi ngờ nào cũng không
có, ngạo mạn gì cũng không có, tham sân si gì cũng không có, hàng phục được kiến
tư phiền não rồi; cũng sẽ không nghĩ thân thể này là tôi, chấp trước nó, cũng sẽ
không [như vậy], kiến hoặc cũng có thể hàng phục được, người như vậy niệm Phật
thì rất có thể biết trước ngày giờ, tự tại vãng sanh. Cho nên phải “phán quyết
đúng sai”, đừng xem điều giả là thật, sai thì cho là đúng đắn, chưa chứng đắc
mà nói mình chứng đắc rồi, vậy thì sai lầm.
Tình
trạng này thì “tha thiết hối lỗi”, sư trưởng chỉ điểm ra cho quý vị, quý
vị phải chịu tiếp nhận, quý vị đừng đỏ mặt tía tai mà ở đó tranh cãi với sư trưởng:
“Rõ ràng là con nghe được có người nói con có thể vãng sanh rồi, đó là Quán Thế
Âm Bồ-tát”. Là quý vị tự nghĩ vậy, nhận nhầm tin tức rồi. Nếu quý vị không chịu
sửa thì phiền phức rồi, vậy sẽ vào ma chướng, cho nên phải “xả bỏ tâm có sở
đắc”. Âm thanh đó nói với quý vị, sắc trần trọn chẳng đạt được, chỉ do tâm
hiện. Là một pháp sanh diệt, âm thanh phát ra là sanh, âm thanh diệt rồi thì
không còn nữa, pháp sanh diệt, vô thường, vô ngã, trọn chẳng đạt được, quý vị
chấp trước làm gì? Nghe được rồi thì thôi, xả bỏ tâm có sở đắc. Quý vị cảm thấy
mình đã đạt được gì trong thanh trần này rồi, nếm mùi vị trong đó, sau đó còn rất
vui mừng mà nói với mọi người, đều là chấp tướng, phải buông xả.
Cho
nên “tinh cầu chân chánh xuất yếu”, tinh tấn siêng cầu yếu lĩnh chân thật
để xuất ly tam giới lục đạo. Yếu lĩnh là gì? Xả bỏ ngã chấp. Đương nhiên có thể
xả ly pháp chấp, vậy thì vượt khỏi mười pháp giới rồi, chắc chắn vãng sanh Thật
Báo Trang Nghiêm độ, làm Pháp thân Đại sĩ rồi. Đây là con đường quan trọng để
xuất thế, xả ngã chấp pháp chấp chính là con đường quan trọng để xuất thế. Cho
nên trong Kinh Kim Cang có một câu nói rất quan trọng nhắc nhở chúng ta, bài kệ
đó, do Như Lai nói: “Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã,
thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai”. Nếu quý vị thấy
Phật rồi, thì hãy đọc bài kệ này, đọc rồi thì sẽ là hiện tượng tốt, quý vị đừng
chấp tướng đó thì đó là tướng tốt, chấp tướng rồi chính là ma. Bởi vì tâm của
quý vị đã là ma, tâm chấp tướng chính là ma, tâm của ma nhất định là hợp với tướng
của ma, tâm và cảnh là một, là tương ưng. Tôi không chấp, tướng đó chính là tượng
Phật, không sai, Phật mà quý vị thấy là thật. Nếu quý vị dùng âm thanh để cầu,
nghe được Quán Thế Âm Bồ-tát nói với tôi điều gì đó, thấy A Di Đà Phật rồi, “thấy ta bằng
sắc tướng, người này hành tà đạo, không thể thấy Như Lai”.
Điều
này rất quan trọng, đối với người tưởng nhớ Phật, muốn thấy Phật, là một lời nhắc
nhở quan trọng. Bởi vì sợ rằng mọi người cứ nghe tôi giảng, Kinh Vô Lượng Thọ bản
Hán dịch, bản Ngô dịch nói: Niệm đến một ngày một đêm nhất tâm bất loạn thì buổi
tối có thể mơ thấy Phật. Tôi nhắc nhở quý vị, cho dù nằm mơ thấy Phật rồi cũng
đừng chấp tướng, đó chỉ là một sự cảm ứng do quý vị niệm đến nhất tâm bất loạn,
tướng đó cũng là hư vọng, quý vị không chấp tướng thì đó là tướng tốt, chấp tướng
rồi thì không tốt. Cho nên vì sao A Di Đà Phật phải thị hiện với quý vị trong
mơ, không thị hiện cho quý vị thấy, là vì sợ quý vị chấp tướng. Thị hiện trong
mơ, quý vị nghĩ đi nghĩ lại, đây chỉ là giấc mơ, như vậy thì tốt hơn, quý vị sẽ
không quá chấp tướng; thị hiện thật sự trước mặt quý vị, thì quý vị chấp chặt
tướng rồi. Trừ phi quý vị giống như Đại sư Huệ Viễn, Ngài là người đã khai ngộ,
đã biết tất cả các tướng hư vọng không thật, trọn chẳng đạt được, thấy như
không thấy, thì có thể thấy, như vậy thì Phật mới thị hiện cho quý vị thấy. Nếu
không có sự chứng ngộ như vậy, Ngài sẽ không thị hiện cho quý vị thấy, nhiều nhất
cũng hiện một lần trong giấc mộng cho quý vị thấy, khích lệ quý vị là được rồi.
Cho nên “chuyên cầu con đường quan trọng để xuất thế, mới khỏi bị sa đọa”,
nếu không thì công phu của quý vị sẽ thoái chuyển, quý vị sẽ bị sa đọa.
Bây
giờ hết thời gian rồi, chúng tôi nói đến đây trước, cám ơn mọi người.
HẾT
Cẩn
dịch: Diệu Hiệp