TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014
Phẩm Thứ Tám: Tích Công Luỹ Đức
Tập 227
Chủ giảng: Đại lão Hoà thượng Thích Tịnh Không
Thời gian: ngày 04 tháng 08 năm 2015
Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông
Dịch giả: Chiếu Thiện
Giảo chánh: Thích Thiện Trang.
Kính chào chư vị Pháp sư, quý vị đồng học, mời an tọa. Thỉnh mọi người cùng tôi đồng quy y Tam Bảo:
“A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng-Già, chư chúng trung tôn.” (3 lần)
Mời xem Đại Kinh Khoa Chú: Trang 561, hàng thứ hai, 忍力成就 “Nhẫn Lực Thành Tựu” (Thành Tựu Nhẫn Lực). Khoa này gồm có sáu câu kinh, đối với việc tu học mà nói thì rất là quan trọng, đây là hướng dẫn tốt nhất cho bước đầu tu học, nhất định cần phải tuân thủ. Chúng ta cùng đọc qua đoạn kinh văn một lượt:
【不計眾苦。少欲知足。專求白法。惠利群生。志願無倦。忍力成就。】“Bất kế chúng khổ, thiểu dục tri túc, chuyên cầu bạch pháp, huệ lợi quần sanh, chí nguyện vô quyện, Nhẫn lực thành tựu” (Không kể các khổ, ít muốn biết đủ, chuyên cầu pháp thiện, lợi lạc chúng sanh, chí nguyện không nản, thành tựu Nhẫn lực).
Chúng ta xem chú giải của Niệm lão,『不計眾苦,少欲知足』“Bất kế chúng khổ, thiểu dục tri túc”, 計者,計較執著 “Kế giả, kế giảo chấp trước” (Kế: là tính toán so đo chấp trước), buông không xuống. Buông không xuống điều gì? Tất cả đều là những việc khổ không nói thành lời. Ai biết được? Đức Phật biết! Cảnh giới hiện tại trước mặt này của chính chúng ta, [mà] không biết, nếu như biết, thì sẽ có phương pháp lìa khổ đạt được an vui. Câu thứ hai là dạy cho chúng ta lìa khổ đạt được an vui. Chúng ta xem 苦者,《佛地經論》曰:逼惱身心名苦 “Khổ giả, Phật Địa Kinh Luận viết: Bức não thân tâm danh khổ” (Về khổ, trong Luận Phật Địa Kinh nói rằng: Bức não thân tâm gọi là khổ), bức bách não hại, hoặc là trên thân thể, hoặc là trên tinh thần, tâm khổ chính là tinh thần, cảm thấy bức bách, bức não. 眾苦者 “Chúng khổ giả”(Về chúng khổ), có rất nhiều, đức Phật thường thuyết trong kinh điển rằng, 內苦,外苦 “Nội khổ, ngoại khổ”, nội khổ là khổ ở trong tâm, phần lớn nói về mặt tinh thần; Ngoại khổ là nỗi khổ của thân thể, thọ nhận những bức hại từ tình cảnh bên ngoài, đây thường được gọi là Nhị khổ. 三苦 “Tam khổ”, đức Phật quy nạp khổ thành ba loại lớn, ba loại lớn này là Tam giới, khổ trong Lục đạo Luân hồi, hết thảy các nỗi khổ, chúng ta đang ở trong Dục giới, ba loại khổ này đều có ở Dục giới, gồm có Khổ khổ, Hoại khổ, và Hành khổ. Khổ khổ chính là Bát khổ, đã nói 8 loại; Hoại khổ, cõi trời Sắc giới có, chính là 18 tầng trời của Tứ thiền, ở nơi đó không có Khổ khổ, nhưng có Hoại khổ và Hành khổ. Cao nhất trong Lục đạo là trời Tứ Không, [chúng sinh] ở trời Tứ Không không có xác thân, họ không cần thân thể này, thân thể thật rất phiền toái. Như Lão tử đã nói rằng: 吾有大患,為吾有身 “Ngô hữu đại hoạn, vị ngô hữu thân“ (Ta có hoạ lớn, vì ta có thân). Nỗi lo lắng lớn nhất của ta là gì? Bởi vì có thân thể này, nếu không có thân thể này thì tốt biết bao. Ở trời Vô sắc giới thì những gì liên quan đến thân thể này đều không cần nữa, chỉ là họ không có Hoại khổ, không có Khổ khổ, họ có Hành khổ. Hành khổ có nghĩa là gì? Là không thể duy trì vĩnh viễn, họ có thọ mạng, khi thọ mạng hết rồi, Tứ Không Thiên là cõi trời cao nhất, thọ mạng hết rồi, không thể đi lên trên được nữa, không đi lên được thì sẽ bị đọa lạc rơi xuống, đi xuống trượt dốc thì trượt rất nhanh, đó gọi là Hành khổ, không thể đoạn dứt gốc rễ của khổ này. Tam khổ bao trùm hết thảy Lục đạo: trời, người, A-tu-la, và ba đường ác.
四苦、八苦 “Tứ khổ, Bát khổ”, Tứ khổ là chỉ: sanh, lão, bệnh, tử, đây là những điều không thể tránh khỏi trong Dục giới này, Bát khổ cũng như vậy. 分類不同,均表苦類眾多。菩薩了達一切諸苦皆是虛妄,畢竟不可得,故能安忍,住於平等,故曰不計眾苦 “Phân loại bất đồng, quân biểu khổ loại chúng đa. Bồ-tát liễu đạt nhất thiết chư khổ giai thị hư vọng, tất cánh bất khả đắc, cố năng an nhẫn, trụ ư bình đẳng, cố viết bất kế chúng khổ“ (Phân loại khác nhau, đều biểu thị các loại khổ thì nhiều. Bồ-tát thông suốt tất cả những đau khổ là hư ảo, trọn hết đều không có, nên có thể an nhẫn, trụ trong bình đẳng, nên nói bất kế chúng khổ). Bồ-tát giác ngộ rồi. Trong đây đã nói rõ ràng Tứ khổ rồi. [Còn] Bát khổ, Bát khổ trước mắt chính là bốn loại: sinh, lão, bệnh, tử. Lại cộng thêm những điều gặp phải trong cuộc sống hiện thực, có Cầu bất Đắc khổ, chúng ta có mong cầu, nhưng không đạt được, cầu tài, cầu địa vị, cầu con cái, không thể thoả mãn những mong muốn của chính mình, các điều này dẫn đến khổ, Cầu bất Đắc khổ. Điều thứ sáu, Ái biệt Ly khổ, những người thân yêu của quý vị, những điều quý vị yêu quý, ví dụ như sản nghiệp của quý vị, tổ tiên quê hương để lại, lại phải ra ngoài làm ăn mà không thể thường xuyên sum họp, người thân không thể gặp nhau thường xuyên, như vậy gọi là Ái biệt ly. Tiếp theo điều thứ bảy, Oán tắng Hội khổ, yêu mà phải ly biệt, oan gia đối đầu không muốn gặp mặt họ, nhưng mỗi ngày đều gặp, bạn học ngồi chung trên một băng ghế dài, rất khổ, không bằng lòng; Cùng làm việc trong một đơn vị, mỗi ngày phải gặp mặt, là người mà trong lòng quý vị chán ghét nhất, đây là những điều mà mọi người thường có. Điều cuối cùng, Ngũ ấm xí Thạnh khổ. Ngũ ấm xí Thạnh, Ngũ ấm chính là: sắc, thọ, tưởng, hành, thức, đó là chỉ điều gì? Chỉ những vật chất cơ bản tạo nên sự sống cơ thể của chúng ta. Trước đây, quan niệm về Ngũ ấm đã bị hiểu sai. Hiện nay, nghe báo cáo từ các nhà khoa học, tuy rằng chúng ta không có khai ngộ, nhưng cũng có những khái niệm chính xác khách quan hơn. Đức Phật thuyết trong Kinh Kim Cang rằng: Cơ thể của chúng ta là một hợp tướng. Như vậy có ý nghĩa gì? Là nó được hợp thành từ những loại vật chất giống nhau, các loại vật chất đó được gọi là Ngũ uẩn, hoặc gọi là Ngũ ấm, đều được, năm thứ này kết hợp với nhau tạo thành một vật thể. Vật thể này rất nhỏ, trong kinh Phật gọi là Cực vi sắc, chẳng những trời người trong Lục đạo, 28 tầng trời, không thể nhìn thấy được bằng Thiên nhãn, mà kể cả Huệ nhãn của A-la-hán cũng nhìn không thấy, Pháp nhãn của Bồ-tát vẫn nhìn không thấy, vậy khi nào mới có thể nhìn thấy? Trong kinh điển Đại thừa thường nói từ Bát địa trở lên, điều này chẳng dễ dàng. Bồ-tát, trong Kinh Hoa Nghiêm chia thành 52 cấp bậc, vậy Bát địa thuộc cấp bậc nào? Thuộc năm cấp bậc cao nhất: Bát địa, Cửu địa, Thập địa, Đẳng giác, và Diệu Giác, những vị ở trong năm cấp bậc này có thể nhìn thấy, định công của các Ngài sâu dày, thần thông quảng đại. Những vị từ Thất địa trở xuống biết có sự việc này, nhưng không thể nhìn thấy tận mắt, phải định công của những vị từ Bát địa trở lên mới có thể nhìn thấy được.
Hiện nay, loại vật chất này đã được các nhà khoa học phát hiện, đức Phật nói là Cực vi sắc, đó là vật nhỏ nhất trong hiện tượng vật chất, không thể chia nó nhỏ hơn, nếu chia nhỏ hơn nữa thì không còn tồn tại, sẽ trở thành hư không. Các nhà khoa học đã tìm thấy loại vật chất này, nó chỉ được phát hiện, và tìm ra trong khoảng 20 năm trở lại đây. Nguyên tử được phát hiện cách đây 80 năm, nhân loại lúc bấy giờ cho rằng Nguyên tử là đơn vị vật chất nhỏ nhất, tất cả các hiện tượng trên thế gian, các hiện tượng vật chất đều do nó tạo thành, đều là cùng một thứ. Vì vậy trong Kinh Kim Cang có nói đến “một hợp tướng”, nói đúng rồi, nói không sai một chút nào. Chỉ biết rằng nó là vật chất, vật chất chính là Sắc; Ngoài ra, ngoài trừ Sắc ra, nó còn mang theo có Thọ Tưởng Hành Thức, khoa học chưa phát hiện ra điều này. Hiện nay đã biết rồi, Danh từ của các nhà khoa học là Neutrino, hoặc là Trung vi tử đều được. Thể tích của nó lớn cỡ nào? Các nhà khoa học cho chúng ta biết, mười tỷ hạt Neutrino nhào trộn với nhau, thì thể tích của nó tương đương với một electron, một electron trong nguyên tử. Nguyên tử được cấu tạo từ hạt nhân nguyên tử, hạt nơ-tron, và electron, trong Hóa học chúng ta gọi đây là các nguyên tố. Thể tích một Neutrino bằng một phần mười tỷ của một electron, nhỏ như vậy. Sự phát hiện của một thứ nhỏ như vậy, đồng thời cũng là phá vỡ nó, sau khi phá vỡ, thì không còn hiện tượng vật chất nữa. Điều này cũng giống với Cực vi sắc được giảng trong kinh Phật, một khi Cực vi sắc bị chia nhỏ ra, nó sẽ bị biến mất, trở thành hư không, do đó nó còn được gọi là Lân hư trần. Vi trần, trong Phật pháp khi đề cập đến [vật chất] rất nhỏ, gọi nó là Vi trần, vi trần này rất nhỏ, là hàng xóm của hư không, quý vị không thể chia nhỏ nó, khi chia nhỏ nó thì không còn nữa, là trở thành hư không rồi. Vì vậy, Lân hư trần mà trong kinh Phật nói đến, chính là Neutrino mà các nhà khoa học hiện đại đề cập.
Tuy nhiên, trong kinh Phật nói về Cực vi sắc này, nó có Thọ Tưởng Hành Thức. Vấn đề này cũng được các nhà Cơ học Lượng tử hiện tại nhìn thấy, nhìn thấy điều gì? Hạt này sau khi bị phá vỡ thì không còn nữa, không còn nữa vậy nhìn thấy điều gì? Đó là hiện tượng sóng ý niệm, phát hiện hiện tượng này. Vì vậy mới hoảng nhiên đại ngộ, vật chất không phải đơn thuần, vật chất dù nhỏ đi nữa, vật chất nhỏ đến như hạt Neutrino, thật sự là vật chất căn bản, nó có Thọ, vậy Thọ là gì? Nó có Cảm thọ, có Tưởng, có Hành, và có Thức. Thức chính là ký ức của chúng ta nói ngày hôm nay, chính là Chủng tử của A-lại-da thức, Chủng tử của Thức thứ tám, có hiện tượng này. Nói cách khác, tất cả hiện tượng vật chất là sống, nó không phải chết, ở trong vũ trụ không có thứ gì là chết, tất cả đều có Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Sắc là vật chất, ý nghĩa điều này muốn nói rằng, vật chất và tinh thần là một thể, không thể phân chia. Tinh thần đã nói rồi bốn từ: Thọ, Tưởng, Hành, Thức, còn vật chất giảng một từ làm đại diện, dùng từ “sắc”. Vì vậy, Tiến sĩ Masaru Emoto làm các thí nghiệm về nước, ông qua đời vào năm ngoái. Tôi đã được tham quan phòng thí nghiệm của ông ấy ba lần, lần gần đây nhất là hai-ba tháng trước, khi tôi đến Nhật Bản giảng kinh, tiện thể đến thăm quan phòng thí nghiệm của ông, được vợ của ông đón tiếp. Chính chúng tôi ở Cao Hùng, Bác sĩ Lưu đã thành lập một phòng thí nghiệm, làm rất tốt, hiệu quả còn tốt hơn so với [những gì] Tiến sĩ Emoto đã làm. Chúng tôi đã lấy mẫu thí nghiệm mang theo, vợ ông khi nhìn thấy đã rất ngạc nhiên, bà muốn cùng Bác sĩ Lưu (chính là Bác sĩ khám răng cho tôi), bà muốn hợp tác cùng Bác sĩ Lưu. Có thể hợp tác, hợp tác tiếp tục nỗ lực để nghiên cứu. Điều này chứng minh rằng trong vũ trụ không có bất kì vật gì mà không có hiện tượng tinh thần, hiện tại nói về thể hữu cơ, toàn bộ vũ trụ đều là thể hữu cơ, thực vật là thể hữu cơ; Đá, bùn đất cũng là thể hữu cơ, tất cả đều là sự sống, không có vật gì là chết.
Tiến sĩ Hew Len tại Hoa Kỳ, đến thăm quan phòng studio của chúng tôi, nói với chúng tôi rằng, chiếc bàn của chúng tôi có Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Nó có sự nhận biết, khi chúng ta khởi tâm động niệm nó biết, chúng ta lời nói việc làm của chúng ta thì tất nhiên nó càng biết rõ, trần nhà biết, sàn nhà biết, ngay cả bức tường cũng đều biết, quý vị có thể che dấu được ai? Điều này được các nhà khoa học hiện đại phát hiện, không chỉ là hướng đến điều mà Nho giáo gọi là “Mười mắt trông thấy, mười tay trỏ vào”, không dừng ở đó, nó là một ví dụ. Khoa học nói cho chúng ta sự thật, toàn bộ vũ trụ là sống, là thể hữu cơ, phù hợp với trong Kinh Hoa nghiêm nói rằng: 一即是多,多即是一 “Nhất tức thị đa, đa tức thị nhất” (Một tức là nhiều, nhiều tức là một), một chính là hạt căn bản này, chúng ta nói đến Cực vi sắc, Ngũ uẩn được thuyết trong Tâm Kinh. Bồ-tát Quán Thế Âm dùng trí tuệ để quán xét, 行深般若波羅蜜多時,照見五蘊皆空 “Hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến Ngũ uẩn giai Không“ (khi thực hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu, soi thấy năm Uẩn đều Không). Thể của Ngũ uẩn là gì? Là Tự Tánh, không rời khỏi Tự Tánh; Nói cách khác, là hiện tướng của Tự Tánh, hiện tượng căn bản của hiện tướng chính là điều này. Toàn bộ vũ trụ là do Ngũ uẩn tạo thành, hợp thành, gọi là một hợp tướng, một hợp tướng này là Tự Tánh của chính mình.
Một hợp tướng đã là Tự Tánh của chính mình, vậy toàn bộ vũ trụ và chính mình có mối quan hệ gì? Là nhất thể. Như Đạo gia có nói: 天地與我同根,萬物與我一體 “Thiên địa dữ ngã đồng căn, vạn vật dữ ngã nhất thể” (Trời đất cùng nguồn với ta, vạn vật [là] một thể với ta), thật vậy, không sai một chút nào. Kinh Hoa Nghiêm nói về toàn thể vũ trụ này, vũ trụ từ đâu mà có? Mười pháp giới Y Chánh trang nghiêm, vậy toàn bộ vũ trụ đến từ nơi nào? Từ tâm hiện thức biến. Tâm chính là Tự Tánh, là Tự Tánh sở hiện, là Tự Tánh sở sinh. Tự Tánh sở sinh, sở hiện được trông như thế nào? Là Nhất chân Pháp giới, cõi Thật Báo Trang Nghiêm của tất cả chư Phật Như Lai: là do tâm hiện. Vậy thế giới hiện tại của chúng ta thì sao? Chúng ta có Mười pháp giới, chúng ta có Lục đạo Luân hồi, Lục đạo Luân hồi và Mười pháp giới là chỉ do Thức biến. Thức là Vọng tâm, chính là vọng tưởng, chính là ý niệm. Y Chánh trang nghiêm, Lục đạo Luân hồi trong Mười pháp giới của chúng ta là do vọng tưởng tạp niệm biến hiện ra, nó sẽ biến đổi. Vậy bản chất của nó là gì? Bản chất của nó là Nhất chân Pháp giới, và A-lại-da đã biến Nhất chân Pháp giới thành Mười pháp giới, biến thành Lục đạo Luân hồi, là sự việc như vậy, đây là chân tướng.
Ba điều bí mật của vũ trụ, ba điều này là đối tượng nghiên cứu của các nhà khoa học, được gọi là bí ẩn của vũ trụ, điều thứ nhất là vật chất, điều thứ hai chính là ý niệm, điều thứ ba là hiện tượng tự nhiên. Vật chất được tiết lộ rồi, vấn đề đã được giải quyết, hiện nay điều thứ hai là ý niệm. Các nhà Khoa học trẻ đang dốc sức mở cánh cửa môn học này, đã thu hoạch được tương đối, hiện nay trên các diễn đàn có rất nhiều báo cáo về lĩnh vực này. Rất nhiều bạn trẻ thích nghiên cứu về điều này, đây là chuyện tốt! Hi vọng hai-ba mươi năm sau, ý niệm là sự việc như thế nào, điều bí mật thứ hai này sẽ được tiết lộ. Khi điều này được tiết lộ rồi, Phật giáo sẽ không được gọi là tôn giáo nữa, vậy gọi là gì? Khoa học cao cấp. Lúc tôi học Phật, thầy giới thiệu Phật pháp cho tôi, nói với tôi rằng, đó là Triết học cao cấp. Tôi học Triết học với Tiên sinh Phương, tôi nhập môn từ đây, không phải nhập môn từ mê tín. Thầy đã giảng cho tôi một bộ “Triết Học Khái Luận”, đề mục cuối cùng là “Triết học Kinh Phật”, ngài nói với tôi rằng: “Đức Thích Ca Mâu Ni là nhà Triết học vĩ đại nhất trên thế giới, Kinh điển Đại thừa là đỉnh cao nhất của Triết học trên toàn thế giới, học Phật là hưởng thụ cao nhất của đời người”, tôi nhập môn từ chỗ này. Đến hiện tại tôi đã học được 64 năm, 64 năm đạt được những kết luận gì? Tôi đồng ý với điều mà các nhà Khoa học nói, Phật pháp không chỉ là Triết học cao cấp, mà còn là Khoa học cao cấp. Như vậy chúng ta có thể tổng kết, cả đời đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã giảng dạy cho chúng ta những gì? Điều này cần chia thành phổ thông và cao cấp, cách Ngài nói với người bình thường, và cách Ngài nói với thế nhân, đức Phật giảng cho chúng ta luân lý, giảng đạo đức, giảng nhân quả, giảng về ba điều này, đây chính là Tiểu thừa trong Phật pháp, Ngài đã giảng trong 12 năm; Về sau [giảng] Đại thừa, đó chính là Khoa học và Triết học. Vì vậy Phật pháp, tương lai rất có thể tên gọi chính xác sẽ là nền giáo dục của đức Thích Ca Mâu Ni Phật, giống như khơi dậy văn hoá truyền thống của Trung Hoa, giáo dục Khổng – Mạnh, hay là nền giáo dục của Khổng tử, chúng ta gọi như vậy. Sau này, 30 năm sau, tôi tin tưởng Phật pháp sẽ là nền giáo dục của đức Thích Ca Mâu Ni Phật, điều này là chính xác. Danh không chính thì ngôn không thuận, tên đúng rất quan trọng, một khi nhìn vào tên, thì hiểu được trong đó nói về điều gì. Đều đã giảng Triết học, Khoa học đến rốt ráo viên mãn.
Tự Tánh là Bản thể, Tự Tánh không sinh không diệt, ở nơi đâu? Ở mọi nơi, ở mọi lúc, Tự Tánh là Bản thể của tất cả vạn pháp. Mục đích giảng dạy rốt cuộc của Phật pháp Đại thừa chính là dạy quý vị minh Tâm kiến Tánh, minh Tâm kiến Tánh thì tốt nghiệp rồi, ở trong Phật pháp thì được xưng là Phật-Đà. Điều Thiền tông gọi là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, Kiến tánh Thành Phật, đi lên tiếp thì không còn gì nữa, chính là đạt được rốt ráo viên mãn. Sau khi kiến Tánh, quá khứ hiện tại, cõi này phương khác, toàn bộ vũ trụ, không điều gì mà quý vị không biết, không gì mà quý vị không thể, điều này gọi là toàn tri toàn năng! Đây là sự ca tụng của các tôn giáo thông thường đối với Thượng đế, nhưng trên thực tế Thượng đế không phải đấng toàn tri toàn năng, toàn tri toàn năng là người minh Tâm kiến Tánh. Ai có thể minh Tâm kiến Tánh? Ai ai cũng đều có thể minh Tâm kiến Tánh. Phải như thế nào mới có thể kiến Tánh? Đoạn này là giảng dạy khai sáng, quý vị nhất định phải biết sáu câu này. Câu thứ nhất, không cần so đo chúng khổ, khổ là giả, quý vị càng so đo thì sẽ càng khổ, quý vị không so đo đến thì sẽ không có chuyện gì. Điều trọng yếu là gì? Thiểu dục tri túc. Tại sao vậy? Dục, sự bành trướng của dục vọng, không biết đủ, điều này làm chướng ngại sự kiến Tánh của quý vị. Vì vậy, quý vị nhất định phải nhận thức được, phải tránh xa. Thật sự đối với hết thảy tất cả dục vọng, tài – sắc – danh – thực – thuỵ, là đối với các điều này; Đối với ý nghĩ mà nói, [là] tham – sân – si – mạn – nghi, những điều này nói từ trong tâm. Nói từ trong Sự, nói từ trên thân thể, tài – sắc – danh – thực – thuỵ. Lục căn tiếp xúc với cảnh giới Lục trần, khi có 10 điều này thì sẽ phiền toái, hoàn toàn mê lầm, mê lầm rất nghiêm trọng, quý vị không nhìn thấy được Tánh. Nếu nhìn thấy sắc, nghe âm thanh, mà bên trong không khởi lên tham – sân – si – mạn – nghi, bên ngoài không bị sự lôi cuốn của tài – sắc – danh – thực – thuỵ, không bị chúng làm động, thì người ấy liền thành Phật rồi. Triệt để sáng tỏ, triệt để buông xuống là Phật; Buông xuống chưa đủ triệt để, buông xuống một phần lớn, là Bồ-tát; Buông xuống phần nhỏ là A-la-hán.
Học Phật bắt đầu từ đâu? Khi tôi còn trẻ, lần đầu tiên gặp Đại sư Chương Gia, tôi liền thỉnh giáo vấn đề này với ngài. Chúng con biết Phật pháp thù thắng, Phật pháp tốt, có phương pháp nào để chúng con có thể nhanh chóng khế nhập không? Tôi nêu ra câu hỏi này. Thầy nhìn tôi, tôi nhìn thầy, tôi tiếp tục nhìn ngài và chờ đợi khai thị của ngài, thầy thấy tính khí tôi bộp chộp nóng nảy, nên không nói chuyện. Điều này rất nhiều năm sau thì tôi mới làm rõ ràng, thời điểm đó cũng không dám hỏi. Rất nhiều năm sau thì hiểu rõ rồi, việc nêu ra câu hỏi là đúng đắn, vậy tại sao không trả lời quý vị? Bởi vì tính khí quý vị bộp chộp nóng nảy. Tính khí bộp chộp nóng nảy, nghe vào tai này, lọt qua tai kia, quý vị sẽ không ghi nhớ. Vì vậy, thầy nhìn tôi, nhìn suốt nửa giờ. Giống như đang tu định, chuyên chú! Tôi chuyên tâm chờ đợi sự giáo huấn của ngài, chuyên chú, chuyên chú chính là tu định. Sau nửa giờ định xuống rồi, ngài mới nói với tôi, nói đúng một từ: “Có”. Khi tôi nghe “có”, thì tinh thần lại động rồi, lại không được rồi. Vì vậy lần thứ hai ngài lại không nói gì, nói một từ “có“, đợi khoảng sáu-bảy phút sau, chúng tôi lại hồi phục trạng thái tĩnh, ngài nói với tôi: “Nhìn thấu, buông xuống”. Quý vị nhìn xem, rất đơn giản, cân nhắc gần một giờ đồng hồ, nhưng kiểu giáo huấn này để cho cả đời quý vị sẽ không quên, quý vị mới biết xem trọng.
Nhìn thấu là hiểu rõ chân tướng sự thật, sau khi hiểu rõ thì không thể để ở trong tâm, cho dù là Tự Tánh, Tự Tánh bất khả đắc, không thể để ở trong tâm; Vạn vật do Tự Tánh sinh ra cũng là giả, cũng bất khả đắc, đều không thể để ở trong tâm. Nhìn được rõ ràng, nhìn được sáng tỏ, đó là trí tuệ, trí tuệ Bát-nhã trong Tự Tánh vốn có; Không để trong tâm là định công, công phu. Không bị cảnh giới ảnh hưởng, ngay cả Tự Tánh cũng không bị ảnh hưởng, đều không thể đặt ở trong tâm, trong tâm có một Tự Tánh, thì hỏng rồi. Vì vậy, đức Phật thuyết trong Kinh Bát Nhã rằng: 法尚應捨,何況非法 “Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp” (Pháp còn nên bỏ, huống chi là phi pháp). Có thể chấp trước Phật pháp hay không? Không thể chấp, chấp trước chính là bệnh, chấp trước chính là chướng ngại. Phật pháp đến từ đâu? Không có Phật pháp, đức Phật cũng chưa từng nói có Phật pháp. Trong ngoài đều không nhiễm, trong ngoài đều không chấp trước, vậy thì đúng rồi, vậy được gọi là khôi phục mặt mũi vốn có trước khi cha mẹ sinh ra của chính quý vị. Điều này quan trọng, đây là chân tu.
Phương pháp tu hành rất nhiều, cho nên gọi là 84.000 Pháp môn, 84.000 không phải là con số, mà là đại diện sự viên mãn, là ý nghĩa của biểu pháp, cũng chính là tất cả vạn pháp mà chúng ta thường nói đến, chính là ý nghĩa này, cho nên phương pháp không có nhất định. Đức Thế Tôn đã biểu diễn cho chúng ta, 49 năm giảng kinh dạy học, đối tượng này chúng ta chỉ cần nghĩ đến thì biết ngay, vậy đối tượng của Ngài là gì? Đó là tầng lớp trí thức, tầng lớp trí thức chiếm đại đa số, chiếm đa số, tầng lớp trí thức thích nghiên cứu, thảo luận, đọc sách, chính là dùng phương pháp này để tu định. Vì vậy, yêu cầu của đức Phật đưa ra: 一門深入,長時薰修 “Nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu”, quý vị thích đọc sách, thì hãy chọn một bộ sách, trọn đời đọc bộ sách này, không đọc sách khác, đọc sách khác thì quý vị sẽ bị vọng tưởng, chỉ một bộ sách này thôi. Trong lúc đọc không cần nghiên cứu ý nghĩa, vì sao vậy? Không có ý nghĩa, không có ý nghĩa mới có thể mở ra vô lượng nghĩa, có ý nghĩa thì sẽ cứng nhắc, chỉ có một ý nghĩa, không có ý nghĩa thứ hai, do đó, không cho quý vị có ý nghĩa. Vậy phải đọc như thế nào? Rời tướng Văn tự, không nên chấp trước vào tướng Văn tự; Lìa tướng Danh tự, những danh từ thuật ngữ của đức Phật giảng, tất cả đều là giả thiết, đều không thể chấp trước; Lìa tướng Tâm duyên, tướng Tâm duyên là khi ta suy nghĩ, điều này có ý nghĩa gì, điều kia có ý nghĩa ra sao, không cần phải nghĩ, không có ý nghĩa, đây mới gọi là tu định. Định đến mức độ nhất định, bất định là duyên phận gì thì bỗng chốc khai ngộ rồi. Khai ngộ là gì? Đọc sách nghìn lần, các nghĩa tự hiện ra, tự hiện ra chính là khai ngộ. Khi quý vị khai ngộ rồi, quý vị hãy tìm vị cao nhân ấn chứng cho quý vị, quý vị nói cho vị ấy nghe, vị ấy cũng chính là thầy của quý vị, vị ấy sẽ làm chứng minh cho quý vị. Vì vậy, thời xưa giáo viên trong các trường tư thục thực thụ, đối với những tài năng thiên phú, học trò có trí tuệ, thì giáo viên có giảng bài cho họ không? Không giảng bài cho họ, chỉ yêu cầu họ đọc. Ví dụ như đọc Tứ Thư, đọc từ đầu đến cuối, mỗi ngày đọc lớn tiếng rõ ràng, không có giảng giải. Đọc khoảng hai – ba năm, họ bỗng nhiên khai ngộ, nghĩa của sách tự hiện ra, những học trò này sẽ trình bày những điều họ hiểu được cho giáo viên nghe, giáo viên gật đầu, không có sai, như vậy họ tốt nghiệp khoá trình này rồi. Giáo viên có giảng không? Không cần phải giảng, để học trò tự khai ngộ. Nếu giáo viên giảng cho họ, thì sẽ chặn đứng cánh cửa ngộ của họ, họ mãi mãi sẽ không khai ngộ; Không giảng dạy cho họ, họ có sự nghi tình, nghi tình là điều tốt, điều được gọi là nghi lớn có ngộ lớn, nghi nhỏ có ngộ nhỏ.
Bộ phương pháp dạy học này của nước ta, trong Phật pháp có, [khi] Phật pháp chưa truyền sang nước ta, nước ta cũng có, sau khi truyền đến thì hoàn toàn tương đồng, những tư tưởng, phương pháp giáo dục này, hoàn toàn tương đồng. Vì vậy, người nước ta yêu mến, đối với Phật pháp xem như một gia đình, không phân biệt bạn và tôi, Phật pháp Đại thừa trở thành văn hoá truyền thống của nuớc ta, Nho-Phật-Đạo là ba trụ cột, không thể thiếu một. Nương Giới mà đắc Định, nương Định mà khai Huệ, khi triết lý này được truyền đến nước ta, Nho giáo đã tiếp nhận, Đạo giáo cũng tiếp nhận. Ở nước ta, tuy Nho-Phật-Đạo là ba trường phái, trên hình thức có sự khác biệt, nhưng trong bản chất không có khác biệt, tại sao vậy? Bởi họ học tất cả, người học Nho [cũng] đọc kinh Phật, đọc sách của Lão tử Trang tử, người học Đạo giáo thì đọc Tứ Thư Ngũ Kinh, đọc kinh điển Đại thừa, người học Phật cũng như thế, cũng học Nho giáo, cũng học Đạo giáo. Thông cả, dung thành một thể, trở thành văn hoá nước ta. Những người nghiên cứu lịch sử văn hóa trên khắp thế giới, cho rằng phương Đông là đệ nhất, mãi mãi đứng ở vị trí hàng đầu, chúng ta cần nhận thức, cần nghiêm túc nỗ lực học tập điều đó. Khi học, nhất định học bao nhiêu thì phải thực hiện bấy nhiêu, cần biến thành cuộc sống, biến thành công việc, biến thành cách đối nhân xử thế, như lời Tiên sinh Phương Đông Mỹ đã nói, đó là hưởng thụ cao nhất của đời người. Nếu không phải là hưởng thụ cao nhất, vậy quý vị học để làm gì? Thật sự là pháp hỉ sung mãn, không cách gì tưởng tượng được.
Dục vọng càng ít càng tốt, gọi là tri túc, tri túc thường lạc. Bồ-tát thành Phật, các ngài trụ ở đâu? Được gọi là Hậu Bổ Phật, giống như Bồ-tát Di Lặc hiện nay, [là] Hậu Bổ Phật, ngài trụ ở nơi nào? Mọi người biết, ngài trụ ở trời Đâu Suất. Đâu Suất là phiên âm từ tiếng Phạn, có nghĩa là gì? Là tri túc. Điều này nghĩa là, không tri túc thì quý vị không thể thành Phật, nếu quý vị muốn thành Phật, thì trước tiên phải tu tri túc, thiểu dục tri túc thì quý vị mới có thể thành Phật. Vì vậy Bổ Xứ Bồ-tát đều trụ tại trời Đâu Suất, [là] biểu pháp, các vị ở trời này thì tri túc. 少欲者,不多求 “Thiểu dục giả, bất đa cầu” (Thiểu dục, là không nhiều mong cầu), sinh hoạt ở thế gian này ngày ngày dễ chịu, chỉ cần không nhiều mong cầu, cuộc sống sẽ rất dễ chịu. Tất cả mọi đau khổ đều là do nhiều mong cầu, cầu bất đắc khổ, thật sự hiểu được sẽ không mong cầu nhiều, không có gì khiến họ không vui.
知足者,所得雖少而不惱恨也 “Tri túc giả, sở đắc tuy thiểu nhi bất não hận dã” (Tri túc, là dù đạt được ít nhưng không phiền não). Không oán trời, không trách người, được ít [cũng] là đủ, họ rất vui vẻ, họ rất tự tại. Lão Hòa thượng Hải Hiền đã vì chúng ta mà biểu hiện chi tiết sống động, ngài không biết chữ, cũng chưa từng đi học, 20 tuổi ngài xuất gia. Gia đình ngài nhiều đời làm nghề nông, cho nên từ khi còn rất nhỏ thì ngài đã làm việc trên ruộng vườn, đối với nông nghệ, công việc đồng áng ngài rất thành thục, là người thạo nghề. Tất cả là được người lớn dạy lại, ngài không học qua trường Nông nghiệp nào, do người lớn dạy, kinh nghiệm cực kỳ phong phú, một đời làm nông, xuất gia rồi ngài cũng làm vườn trồng trọt. Ngài vãng sanh vào năm 112 tuổi, sống thọ đến tuổi cao như vậy, chỉ niệm một câu A Mi Đà Phật, thật tuyệt vời! Niệm một câu A Mi Đà Phật này đến khai ngộ. Tôi xem đĩa CD về ngài, đọc những báo cáo của mọi người, tôi ước lượng ngài đã đạt được Công phu Thành phiến, chính là giai đoạn đầu tiên, 20 tuổi bắt đầu niệm Phật, 5 năm là đã đủ rồi, những người chuyên chú công phu thông thường 3 năm là đủ rồi, tức là từ 3 đến 5 năm, ngài đã niệm đến Công phu Thành phiến. Chỉ cần Công phu Thành phiến, Công phu Thành phiến chính là trong tâm ngài ít vọng tưởng tạp niệm, chỉ là một câu A Mi Đà Phật, tác dụng khởi cảm ứng đạo giao với A Mi Đà Phật. Hoặc là trong mộng, hoặc là trong Định, ngài nhìn thấy A Mi Đà Phật, A Mi Đà Phật sẽ truyền thông điệp cho ngài, khẳng định báo cho ngài biết: “Thọ mạng của con còn bao lâu, đợi đến khi thọ mạng của con hết, Ta sẽ đến tiếp dẫn con”. Tâm người niệm Phật đã định rồi, biết rằng đã được ghi tên ở Thế giới Cực Lạc, đã có phần rồi, tín tâm tràn đầy. Tiếp tục thăng tiến đi lên, nhiều nhất là 10 năm, từ 5 năm đến 10 năm, tức là từ 25 tuổi đến 30 tuổi, đạt được Sự nhất tâm Bất loạn. Sự nhất tâm Bất loạn là cảnh giới của A-la-hán, công phu của ngài ngang bằng với A-la-hán, [là] Sự nhất tâm. Lại qua 10 năm nữa, ngài có thể đắc được Lý nhất tâm Bất loạn, Lý nhất tâm Bất loạn chính là Minh tâm Kiến tánh, Kiến tánh Thành Phật, vị Phật này được gọi là Phần Chứng Phật. Không phải là viên mãn, nhưng là thật, giống như buổi tối chúng ta ngắm mặt trăng, mặt trăng vào ngày mùng ba, mùng bốn, là trăng lưỡi liềm, đó là mặt trăng thật, không phải giả. Còn trăng tròn ngày 15 là Phật viên mãn, vị ấy được gọi là Phần Chứng Phật, vẫn chưa viên mãn, nhưng ngài là Phật thật sự, ngài không phải Phật giả. Trăng ở dưới nước là giả, không phải thật; Trăng ở trên trời là thật, không phải giả. Ngài chí ít phải đạt đến vị thứ này, Minh tâm Kiến tánh, Kiến tánh Thành Phật. Kiến tánh Thành Phật, từ bắt đầu Kiến tánh đến viên mãn, có 41 cấp bậc, đó là 10 Trụ, 10 Hạnh, 10 Hồi Hướng, 10 Địa, và Đẳng Giác. Do đó 41 địa vị Pháp thân Đại sĩ cư trú ở Báo Độ, các ngài ấy ở đâu? Các ngài ở Thật Báo Trang Nghiêm độ, đợi đến khi viên mãn, chắc chắn một đời thành tựu. Hòa thượng Hải Hiền là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, tôi ước đoán rằng ngài vào khoảng 40 tuổi, ngài đã đắc được rồi. Ngài thường thường mong đến Thế giới Cực Lạc, ngài nói lão Phật gia bảo với ngài, nói rằng ngài tu hành rất khá, và yêu cầu ngài trụ ở thế gian thêm vài năm, làm tấm gương tốt cho Đệ tử Phật, cho người tu Tịnh Độ. Thọ mạng của ngài dài như thế, không phải là thọ mạng của chính ngài, mà là đức Phật đã kéo dài tuổi thọ. Kéo dài để làm gì? Để làm tấm gương cho chúng ta. Đây là ân huệ lớn lao biết bao!
Chúng ta ở đời này đến thế gian đây, vô cùng đáng giá, gặp được những sự việc hi hữu khó gặp, đây là điều vô lượng kiếp cũng không dễ gặp được. Gặp được lão Cư sĩ Hạ Liên Cư đã vì chúng ta mà hội tập bộ Kinh Vô Lượng Thọ này, quả là rất hiếm có! Bộ Kinh này sau Thế chiến thứ II mới được lưu truyền, rất ít người đọc được. Chúng ta may mắn, khi Pháp sư Luật Hàng từ trong nước đến Đài Loan, đã mang theo 5-6 quyển, đến Đài Trung để tặng thầy Lý. Thầy Lý xem đến lời mở đầu dài ở mặt trước, là tác phẩm của Đại sĩ Mai là thầy của ngài ấy, sau khi đọc xong thì vô cùng cảm động, ở Đài Trung giảng qua một lần, các chú giải được viết trên quyển Kinh, có lẽ đã in 2-3 nghìn bản, rất ít người được thấy. Tôi và thầy Lý có duyên, thầy đã tặng quyển kinh đó cho tôi, tôi có thể đọc hiểu những chú giải của ngài, không hiểu sai những ý nghĩa của ngài, do đó tôi liền rất muốn được giảng bộ Kinh này. Thầy nói với tôi rằng, duyên chưa chín muồi, tạm thời giữ lại, đến khi nhân duyên chín muồi rồi hãy giảng. Tôi đã tiếp tục đợi đến khi ngài vãng sanh, thời điểm đó tôi đang ở nước Mỹ, tôi mang quyển kinh này theo bên mình, cho mọi người đọc, không có người nào là không thích. Vì vậy mọi người đã phát tâm, chúng tôi in tại Đài Loan, đã in 10.000 bản, chữ được phóng to lên, nên đọc được rất rõ ràng, rất thoải mái. Cho nên tôi ở nước Mỹ, ở Canada, bắt đầu giảng bộ Kinh này, là do đại chúng yêu cầu, giảng ở nước ngoài trước, không có ai là không hoan hỉ. Khi đó có lưu lại băng ghi âm, băng ghi âm được lưu truyền đến Đài Loan, ở Đài Loan mọi người đều thích, tôi nhớ rằng trước sau tôi đã giảng 10 lần. Quyển Kinh này rất hiếm gặp được, với năm bản dịch gốc, Kinh Vô Lượng Thọ trong Đại Tạng Kinh, so sánh với năm bản dịch gốc đó, quyển này trình bày rất chi tiết, biên soạn từ ngữ rất tốt, giống như việc tái tổ chức, không có một từ nào bị thay đổi, đây là phương pháp, thủ pháp cao nhất trong hội tập.
Chú Giải của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ cũng là hội tập. Chúng tôi có duyên gặp nhau ở nước Mỹ, ngài mang theo một bản thảo chưa hoàn thiện, khi hoàn thiện rồi, không còn chỉnh sửa, quyển bản thảo này đã được tặng cho tôi. Ngài nói với tôi rằng, ngài chỉ mới in 100 bản, để thỉnh giáo, xin chỉ giáo của các vị Đại đức trong nhà Phật, ngài rất khiêm nhường. Tôi nhìn thấy hết sức vui mừng, tôi hỏi ngài có bản quyền không? Ngài ấy nói: thầy hỏi tôi câu này là ý gì? Tôi đáp: Nếu không có bản quyền, thì tôi về đến Đài Loan sẽ tái bản với số lượng lớn; Nếu có bản quyền, thì tôi sẽ tôn trọng ngài. Ngài nói rằng: không có, mà còn muốn tôi viết cho ngài một lời mở đầu, ký tên cho ngài, tôi đều đã làm theo. Chúng tôi đã in 10.000 quyển của ấn bản đầu tiên, ngài nhìn thấy rất hoan hỉ. Vì vậy, quyển chú giải này, ở thế hệ trước tôi, như là thầy của tôi, các ngài đều chưa từng thấy qua, chưa từng được gặp, sau khi các ngài ấy vãng sanh, Chú Giải này mới được xuất hiện. Chúng ta rất may mắn, gặp được thiện bản, gặp được bản Chú Giải hay như vậy, bản Chú Giải này là Chánh tri Chánh kiến; Kinh hội tập này, là chân kinh, một chữ cũng không dám thay đổi, là lời gốc của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, quý vị nói xem thật hiếm có biết bao! Lại được gặp lão Hòa thượng Hải Hiền làm biểu pháp cho chúng ta, ngài Hải Hiền, ngài Hải Khánh, ngài Lão Đức, và còn thân mẫu của ngài nữa, hết thảy đều là niệm một câu Phật hiệu đến cùng, quý vị thấy vãng sanh tự tại biết bao, nói đi là đi thôi. Tuy tuổi tác cao, đều là sống hơn 80 tuổi, nhưng không có Lão khổ, không có Bệnh khổ, không có Tử khổ, chỉ dựa vào ba điểm này, chúng ta cần phải tín nguyện trì danh, cầu sanh Tịnh Độ. Không dễ gì đạt được ba loại lợi ích này, làm người ở thế gian này không có lão – bệnh – tử, dù già, nhưng khi về già mà tinh thần tốt, thể lực tốt, không cần người chăm sóc. Vì thế, cần phải học tập điều này.
Điều đạt được dù ít, nhưng không có oán hận, vì sao vậy? Bởi ít, [cũng| đủ rồi, hà tất gì phải cần nhiều như vậy? Đã đủ rồi. Như trong Kinh Niết Bàn có nói: 少欲者,不求不取 “Thiểu dục giả, bất cầu bất thủ” (Ít ham muốn, là không cầu, không chiếm lấy). Đúng thật chân chánh làm được điều: không tranh gì với người, không cầu gì ở đời, với bất kỳ kiểu người nào trên thế gian cũng đều dễ hoà hợp. Tại sao vậy? Bởi điều tôi muốn, thì họ không muốn; Những gì họ không muốn, thì tôi lại muốn, chúng tôi không có xung đột về lợi ích. Cũng chính là trong tài – sắc – danh – thực – thuỵ, là điều họ muốn, chúng ta không muốn, họ mong cầu, chúng ta không cầu, chúng ta có thể an đối với hoàn cảnh nơi ở. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã trình diễn đến sâu sắc tường tận, thực hành triệt để nhất, quý vị xem cả đời của Ngài, ăn một bữa giữa ngày, trú một đêm dưới tán cây, không có đạo tràng, không có tài sản, toàn bộ gia sản trên thân chính là ba y một bát, tất cả mang theo trên người, đi đến đâu mang đến đó, ba y một bát. Còn có một cây trượng, cây trượng chính là chiếc này, đây là cây trượng, cây trượng này dùng để làm gì? Dùng để đi khất thực. Khi khất thực không được gõ cửa nhà người ta, gõ cửa là quá không lễ phép, vậy phải làm sao? Lắc chiếc trượng này sẽ phát ra âm thanh, người ở trong nhà nghe thấy, bên ngoài có thanh âm của thiếc trượng, liền biết có người xuất gia đến khất thực, họ sẽ biết lấy thức ăn ra cúng dường, dùng để khất thực, đó là thiếc trượng.
Trong Kinh Di Giáo nói rất hay, 少欲之人,則無諂曲以求人意。亦復不為諸根所牽 “Thiểu dục chi nhân, tắc vô siểm khúc dĩ cầu nhân ý. Diệc phục bất vi chư căn sở khiên” (Người thiểu dục, thì không có sự nịnh bợt cong quẹo để tìm kiếm sự ưu ái của người, cũng lại không bị các căn sai khiến). Người thiểu dục tri túc, họ sẽ không đi nịnh bợ người khác, sẽ không đi lấy lòng, không có nịnh bợ cong quẹo. Vì vậy, khi họ thọ nhận cúng dường, sau khi thọ nhận xong, nhất định phải hỏi người cúng dường có mong cầu điều gì. Phần lớn khi gặp người xuất gia, sẽ nghĩ đến một số việc mà chính mình làm sai, cầu sám hối, cầu tiêu tai; Nếu không có thì sao? Cần gửi lời chúc phúc đến họ, chúc phúc cho chính họ, chúc phúc cho gia đình họ, đây gọi là Pháp bố thí. Không bị các căn sai khiến, khi Căn và Trần tiếp xúc nhau, không có tham luyến, không có oán hận, dùng tâm từ bi, dùng tâm lợi ích chúng sanh. Tại sao tôi cần ăn uống? Là để cơ thể khỏe mạnh. Tại sao cần cơ thể khỏe mạnh? Để có sức lực, có tinh thần để thọ nhận giáo huấn của đức Phật; Điều thứ hai, là hoằng pháp lợi sanh, vì những điều này mới thọ nhận cúng dường. Đức Phật đã truyền dạy rất rõ ràng.
Tôi bao nhiêu năm qua, đối với việc đức Phật Thích Ca Mâu Ni không tiếp nhận đạo tràng của mọi người cúng dường, tôi đã rất khó hiểu, tại sao ngài không tiếp nhận? Đến nay đã hoàn toàn sáng tỏ rồi, đạo tràng là trói buộc, đạo tràng là khiến lòng người sinh dục vọng. Các vị đến đây xuất gia để làm gì? Nhìn thấy nơi này rất lớn, rất thoải mái, tốt hơn ở nhà mình, họ vì những điều này mà đến xuất gia, họ không phải vì đạo, họ là vì ngôi chùa mà đến xuất gia, vậy thì sai rồi. Họ ở nơi này, là để thỏa mãn sự tham dục của họ, không từ bất cứ việc xấu nào là tạo nghiệp rồi, điều này không tốt. Chúng ta ngày nay nhìn thấy một số vấn đề trong đạo tràng, mới biết rằng đức Phật Thích Ca Mâu Ni cao minh, không cần đạo tràng. Đại sư Ấn Quang chỉ bảo chúng ta, đây là người sống ở thời kỳ cận đại, là người trước chúng ta hai thế hệ, thuộc giai đoạn đầu của thời Dân Quốc. Ngài dạy chúng ta làm đạo tràng nhỏ, túp lều nhỏ, túp lều tiêu chuẩn là tường đất, bên trên lợp cỏ tranh, thực sự là một túp lều. Người ở không được vượt quá 20 người, tốt, tại sao vậy? Bởi chi phí ít, có hai, ba vị hộ pháp là đủ rồi, chăm sóc quý vị là đủ rồi. Nếu như là ở nông thôn, diện tích đất đai ở nông thôn nhiều, thì trồng trọt vài mẫu đất, trồng rau, trồng lương thực, có những thứ này thì đủ dùng rồi. Năm mẫu đất thì có thể nuôi sống một gia đình, giả dụ đạo tràng có thể có được 10 mẫu đất, thì 20 vị xuất gia này, sinh hoạt không thành vấn đề. Phương pháp này vẫn là tốt, chúng ta vẫn là đáng nên đề xướng.
Đạo tràng xây dựng lớn thì chi tiêu lớn, ngày ngày không còn tâm ở trong đạo nữa, mà tâm luôn lo âu việc đi đến đâu tìm nguồn tiền để duy hộ đạo tràng? Muốn kiếm tiền thì phải nịnh nọt người có tiền, có tiền có thế, thì phải nịnh nọt những người ấy, không còn đạo nữa, đạo bị điên đảo rồi, đây là sai lầm. Vì vậy, Phật và Bồ-tát đã xác thực tất cả những cách làm này đều truyền lại tấm gương tốt nhất cho người thế hệ sau chúng ta, chúng ta học tập theo các Ngài thì mới có thể có thành tựu. Không thể giống như hiện nay, hướng tới sự xa xỉ, hướng tới sự hào nhoáng, điều này là không được phép. Vì thế tôi sống được tự tại hơn, cùng tuổi với tôi có người rất suy lão, phần lớn đều đã qua đời, nguyên nhân là gì? Bởi họ có nhiều phiền não, nhiều sự tình phải lo lắng, tôi không phiền não, không lo lắng. Những việc gì nên làm đều là duyên phận, duyên phận tốt, không có chướng ngại, đối với chúng sanh có lợi ích, có chỗ tốt, thì tôi liền sẽ đi làm; Nếu như không có duyên phận, thì tôi cũng không đi tìm mối duyên này, không tìm việc, cho nên sẽ vô sự. Vô sự là tốt nhất, ít việc chẳng bằng không có việc gì, phải hiểu đạo lý này. Cả đời không quản người, không quản tiền, không quản việc, tâm trạng này rất khoan khoái, vì vậy pháp hỉ sung mãn, chính là đạo lý này. Khi đọc kinh sách, mỗi lần đọc lại cảm thấy thích hơn, mỗi lần đều có chỗ ngộ, đọc có chỗ ngộ, giảng có chỗ ngộ, khi chia sẻ cùng với quý vị đồng học cũng có chỗ ngộ, vì vậy có niềm vui vô lượng.
Bên dưới nói, 行少欲者 “Hành thiểu dục giả” (Người hành thiểu dục), người làm thực sự , 心則坦然,無所憂畏 “Tâm tắc thản nhiên, vô sở ưu uý” (Tâm sẽ thảnh thơi tự nhiên, không có những lo âu sợ hãi), họ không có lo âu, không có sợ hãi. 觸事有餘,常無不足 “Xúc sự hữu dư, thường vô bất túc” (Gặp việc nào [cũng] thấy dư, thường không có thiếu thốn), đây đều là sự thật. 有少欲者,則有涅槃,是名少欲 “Hữu thiểu dục giả, tắc hữu Niết-Bàn, thị danh thiểu dục” (Có ít ham muốn, thì có Niết-Bàn, đó là thiểu dục). Niết-Bàn, đối với người Tiểu thừa mà nói chính là tâm thanh tịnh. “Thanh tịnh bình đẳng giác” trên tựa đề kinh chúng ta, thanh tịnh, thiểu dục thanh tịnh, đây là Niết-Bàn của Thanh văn, Duyên giác, chính là A-la-hán và Bích-chi-phật; Giác là Niết-Bàn của Đại thừa, Đại Bát-Niết-Bàn, Pháp thân Bồ-tát đã chứng đắc. Niết-Bàn cũng được phiên dịch là tịch tĩnh, thanh tịnh tịch diệt, không nhiễm một mảy trần. Tiếp theo, đây đều là lời trong Kinh Di Giáo, 汝等比丘,若欲脫諸苦惱 “nhữ đẳng Tỳ-kheo, nhược dục thoát chư khổ não” (này các Tỳ-kheo, nếu muốn giải thoát tất cả khổ não), quý vị mong muốn lìa khổ, làm sao để lìa khổ? 知足之法,即是富樂安隱之處 “Tri túc chi pháp, tức thị phú lạc an ẩn chi xứ” (Pháp tri túc, chính là nơi giàu sang an lạc yên ổn). Quý vị mong muốn thật sự lìa khổ được vui, thì quý vị phải tu thiểu dục tri túc, thì sẽ lìa khổ được vui thôi. 知足之人,雖臥地上,猶為安樂 “Tri túc chi nhân, tuy ngọa địa thượng, do vi an lạc” (Người mà biết đủ, tuy nằm trên đất, vẫn là an lạc). Điều này là thật, người xuất gia thời xưa đều là ngủ ngoài trời nơi hoang dã, sức khỏe tốt, các ngài ấy mỗi ngày trải qua sự rèn luyện này, thân tâm an lạc. 不知足者,雖處天堂,亦不稱意 “Bất tri túc giả, tuy xử Thiên đường, diệc bất xứng ý” (Người không biết đủ, tuy ở Thiên đường, cũng không vừa ý). Điều này là thật, người không biết đủ, đối đãi họ dù tốt đến đâu, thì họ luôn luôn không thấy đủ. 不知足者,雖富而貧。知足之人,雖貧而富 “Bất tri túc giả, tuy phú nhi bần. Tri túc chi nhân, tuy bần nhi phú” (Người không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người mà biết đủ, tuy nghèo mà giàu). Vì sao thế? Bởi họ là đại phú Trưởng giả, nhưng họ không biết đủ, vẫn mong cầu, thân tâm gánh vác rất nặng. Tôi đã từng gặp những đại phú trưởng giả của những gia tài bạc triệu, họ nói với tôi, họ nói buổi tối không có cách nào ngủ được, nhất định phải uống thuốc ngủ, ngày ngày đều phải uống, không có thuốc ngủ thì không thể nào ngủ được. Vậy khổ biết bao! Nguyên nhân là gì? Vì họ vẫn chưa biết đủ; Giá mà biết đủ, thì đã buông xuống rồi, thân tâm khỏe mạnh, họ sẽ hạnh phúc. Cho nên khi so sánh phú quý, phải so sánh từ trên những điều này. Hiện nay xã hội này, bất kể trong nước, hay nước ngoài đều giống nhau, giàu mà không vui, quý mà bất an, quý nghĩa là địa vị rất cao, nhưng không có cảm giác an toàn; Giàu, có rất nhiều tài sản, nhưng không hạnh phúc, quý vị sợ hãi, lo lắng, sợ mất mát tài sản, đề phòng người, đề phòng không xuể. Khi không có thứ gì thì sạch sẽ biết bao, họ hạnh phúc biết bao, đến nơi nào du lịch, mang một túi hành lý nhỏ là đi được rồi, tự tại biết bao. Vì vậy chúng ta phải ghi nhớ rằng, người mà biết đủ tuy nghèo mà giàu, người giàu kia không hạnh phúc, quý vị rất hạnh phúc, hạnh phúc hơn họ.
又《法華經勸發品》云:是人少欲知足,能修普賢之行 “Hựu Pháp Hoa Kinh Khuyến Phát Phẩm vân: Thị nhân thiểu dục tri túc, năng tu Phổ Hiền chi hạnh” (Lại nữa, trong phẩm Khuyến Phát của Kinh Pháp Hoa nói rằng: Người ấy ít muốn biết đủ, có thể tu hạnh của ngài Phổ Hiền). Hạnh Phổ Hiền, là Sở tu của Pháp thân Bồ-tát, không phải thiểu dục tri túc thì các ngài làm không được. Người có điều kiện thế nào thì có thể tu hạnh Phổ Hiền? Đức Phật nói cho chúng ta rõ ràng ở trong kinh rằng, phải thiểu dục tri túc, mới có thể giống với Pháp thân Bồ-tát, được đại tự tại. Hạnh Phổ Hiền là điều mà Bồ-tát tu, [chỗ] thù thắng hơn Bồ-tát chính là tâm lượng của ngài lớn. Chữ “Phổ” này trong danh hiệu, làkhắp toàn thiên hạ, lại tiếp tục mở rộng, khắp Pháp giới, Hư không giới, vậy mới là “Phổ”. Còn “Hiền” có ý nghĩa gì? Mong muốn giúp đỡ những người này, những chúng sanh này: đều có thể trở thành Hiền nhân, Hiền nhân là Bồ-tát, Thánh nhân là Phật. Chính mình là Bồ-tát, hi vọng khắp Pháp giới, Hư không giới, tất cả chúng sanh, đều có thể trở thành Bồ-tát Phổ Hiền giống tôi.
Hạnh của Bồ-tát Phổ Hiền, trong phẩm Ly Thế Gian của Kinh Hoa Nghiêm có năm quyển kinh văn nói về Hạnh Phổ Hiền, tổng cương lĩnh chính là Thập đại Nguyện vương, Thập đại Nguyện vương thống nhiếp Phẩm Ly Thế Gian. Từ phần lễ kính mà nhập môn, “Lễ kính chư Phật”. Chư Phật này là ai? Là chư Phật trong quá khứ, chư Phật ở hiện tại, chư Phật vị lai. Chư Phật vị lai là ai? Tất cả chúng sanh vốn dĩ là Phật, thật sự chí thành cung kính, Bồ-tát thông thường, A-la-hán chưa làm được điều này, các ngài vẫn còn có sự phân biệt. Bồ-tát Phổ Hiền trụ tâm bình đẳng, ngài không phân biệt, có phân biệt thì không bình đẳng, tấm lòng của ngài thanh tịnh bình đẳng đối với tất cả chúng sanh. Tất cả chúng sanh, không chỉ bao gồm chúng sanh Hữu tình, mà cả chúng sanh Vô tình, là gì? Hoa, cỏ, cây cối là chúng sanh, do nhiều duyên hòa hợp mà sanh khởi là chúng sanh; Núi sông đất đai là chúng sanh, cũng là do nhiều duyên hòa hợp mà sanh khởi. Cảnh giới mà hai chữ “chúng sanh” này bao gồm là sâu rộng vô hạn, có pháp nào không phải là do nhiều duyên hợp thành mà sinh không? Đều như vậy. Bồ-tát không có sự không tôn trọng, không có sự không lễ kính, đối với người phải lễ kính, đối với vật cũng phải lễ kính. Bên trong vật có thực vật, có núi sông đất đai, có khoáng vật, đối với đồ vật phải sắp đặt chúng được gọn gàng ngăn nắp, sạch sẽ, như bàn ghế đều là chúng sanh. Sự cung kính này với đồ vật, không phải bảo quý vị dập đầu lễ bái chúng, không phải vậy, mà là bày trí sạch sẽ, để khi mọi người nhìn thấy, chạm đến đều có thể sinh tâm hoan hỉ.
稱讚如來 “Xưng Tán Như Lai”. Lễ kính là chư Phật, còn xưng tán thì sao? Quý vị xem đây không phải là chư Phật, mà là Như Lai. Chư Phật chính là Như Lai, Như Lai chính là chư Phật, vậy tại sao phải thay đổi? Vì ý nghĩa không giống nhau, chư Phật là nói từ trên Tướng, Như Lai thì nói từ trên Tánh. Nói cách khác, lễ kính chư Phật là không có bất kỳ điều kiện nào, còn xưng tán Như Lai thì có điều kiện, đó là tán thán những đức hạnh tương ứng với thiện của họ, nhưng không tán thán [điều] không tương ứng với tất cả thiện, khác biệt nằm ở chỗ này. Nếu quý vị đọc 53 tham vấn thì sẽ biết, trong 53 tham vấn có ba vị, ngài Đồng tử Thiện tài đối với các ngài ấy có lễ kính, nhưng không có xưng thán. Ba người ấy, một là Bà-la-môn Thắng Nhiệt, ngài đại diện cho sự ngu si, vua Cam Lộ Hỏa đại diện cho sự sân hận, nữ Phạt Tô Mật Đa đại diện cho sự dâm dục. Sát đạo dâm, những ngài đó đại diện cho các điều này. Với ba ngài này là lễ kính, các ngài là chư Phật, nhưng không tán thán, điều các ngài ấy làm là ác nghiệp không phải thiện nghiệp, khác biệt là ở đây, cho nên dùng [chữ] Như Lai, không dùng [chữ] chư Phật.
Những điều khác, 廣修供養 “Quảng tu Cúng dường”. Câu này rất quan trọng, bất luận pháp thế gian hay xuất thế gian, nếu không có phước báo thì rất khó độ chúng sanh, thật sự giáo hóa chúng sanh, là phải có phước báo này, không thể không có phước. Vì thế với chúng ta: tu huệ quan trọng, mà tu phước cũng quan trọng. Chúng tôi thời còn trẻ, thầy có kinh nghiệm phong phú, người lớn tuổi biết xem tướng, nhìn thấy nhóm học trò trẻ chúng tôi không có phước báo, thọ mạng cũng không dài. Thầy rất từ bi, dạy chúng tôi Quảng tu Cúng dường, rộng kết thiện duyên, vì sao vậy? Bởi tu phước báo. Đại sư Chương Gia dạy cho tôi, phải tu ba loại Bố thí, đạt được ba loại phước, Bố thí tài được giàu có, Bố thí pháp được thông minh trí tuệ, Bố thí vô uý được khỏe mạnh sống lâu, đều phải thật làm cả ba điều này, không làm không được. Thời trẻ của chúng tôi vô cùng gian khổ, tự bản thân chỉ có thể đủ duy trì no ấm của chính mình, cơm canh đạm bạc, làm gì có tiền để bố thí? Bố thí phải có tiền, Bố thí tài. Thầy hỏi tôi, có một xu hay không? Tôi đáp một xu thì [con] có thể; Vậy một đồng thì [con] có không? Một đồng cũng vẫn được, thế thì con từ một xu một đồng mà bắt đầu, phải dưỡng thành một tâm hoan hỉ bố thí. Trên sự thì tùy duyên, tùy duyên chính là công đức viên mãn, trên người tôi chỉ có một đồng tiền, tôi lấy một đồng này bố thí hết, là tất cả, công đức viên mãn; Nếu tôi chỉ lấy năm xu, tức là được công đức của một nửa, cách tính là như vậy. Cho nên thường thường chúng ta bố thí một đồng tiền, công đức còn lớn hơn những vị bố thí vài vạn tiền, thứ các vị ấy có là tiền, vài vạn tiền ở chỗ họ coi như chuyện nhỏ; Còn một đồng này của chúng ta thì rất long trọng, một đồng tiền bằng chi phí sinh hoạt của một-hai ngày, vậy thì không giống nhau! Vì thế, người nghèo khổ thì đời sau sẽ trở thành giàu có, người giàu có làm rất nhiều điều tốt, nhưng có khi đời sau vẫn nghèo khó, phải hiểu đạo lý này. Dưỡng thành tâm bố thí, nhìn thấy người có điều gì cần thiết, thì chính mình ít ăn một chút, ít mặc một chút, giúp đỡ người khác trước, như thế trong đời này sẽ giúp ích rất lớn trong hoằng dương Phật pháp.
Pháp duyên của chúng tôi vô cùng thù thắng, do từ đâu đến? Đến từ bố thí. Sự cúng dường của đồng học thập phương cho tôi, tôi đều bố thí, tôi không xây chùa; Xây chùa, tôi nhận thấy số tiền đó bị chôn ở dưới đất rất đáng tiếc, không phát huy tác dụng, bố thí vẫn là tốt hơn. Điều tôi học là học theo Đại sư Ấn Quang, Đại sư Ấn Quang, tứ chúng cúng dường ngài thì hết thảy dùng làm bố thí pháp, bố thí pháp là in kinh. Ngài đã tự mở một xưởng in ấn, chính là Hoằng Hóa Xã, Hoằng Hoá Xã Tô Châu chính là do tứ chúng Đệ tử của Đại Sư Ấn Quang cúng dường mà xây dựng nên. Thời điểm đó là in chì, in cũng được vô cùng tốt, hiệu đính rất chuẩn xác, được xem là bản sách trội nhất. Ngài cho lưu hành bằng với chi phí in ấn, nên giá của sách rất rẻ; Nếu thật sự muốn học, mà trường hợp không có tiền mua sách, thì ngài kết duyên gửi tặng. Cả cuộc đời làm một việc này, không có việc thứ hai. Gặp phải những vùng khác có tai họa, hạn hán, lũ lụt thì cứu trợ, đều là trích ra một ít từ trong khoản tiền in kinh để cứu trợ, cứu tế. Lão Hòa thượng đã làm tấm gương tốt nhất cho chúng ta. Cả đời lão Hòa thượng không có đạo tràng, trụ ở đạo tràng của người khác. Lão Hòa thượng có đức hạnh, mọi người đều thích ngài ở lại chỗ của họ một khoảng thời gian, rất hiếm có! Bố thí Vô uý là khi người khác có khổ nạn thì giúp họ tháo gỡ, để họ thoát khỏi sợ hãi có được cảm giác an toàn, chúng ta hộ trì họ, bảo vệ họ.
Tôi học tập theo Đại sư Ấn Quang, từ khi bắt đầu học Phật đến hiện tại là 64 năm, 64 năm vô cùng có hiệu quả, hiệu quả là gì? Càng bố thí càng nhiều hơn. Càng nhiều thì làm sao? Càng bố thí, không bố thí không được. Trường Đại học Nagananda ở SriLanka, muốn lập một trường Đại học Phật giáo, Pháp sư Ven. Bodagama Chandima đến nói với tôi, mong tôi giúp đỡ ngài ấy. Tôi dường như đã hơn ba năm không đến ngân hàng, tôi có một tài khoản, không biết được có bao nhiêu tiền, chưa từng đi kiểm tra. Bởi vì những năm gần đây, ngoài việc mua sách ra, mua Tứ Khố Toàn Thư, tôi đã mua 112 bộ, một bộ 50.000 đô la Mỹ; Về Tứ Khố Hội Yếu, tôi đã mua 300 bộ, hai bộ sách này ước tính gần như là xấp xỉ 20 triệu đô la Mỹ. Có một số tiền, nhưng đã tiêu rất nhiều như vậy, đến ngân hàng kiểm tra một chút, vẫn còn không ít tiền, nên tôi đã đưa tất cả cho ngài ấy, tổng cộng đổi thành đô la Mỹ là 27 triệu đô. Tôi hỏi ngài ấy, dự toán của ngài là bao nhiêu? Ngài ấy nói dự toán là 25 triệu. Tôi nói ở đây tôi có được bấy nhiêu, hãy lấy tất cả.
Hiện giờ tôi đã đổi tài khoản ngân hàng thành quỹ hiệp hội, có lẽ cũng có một vài đồng học biết quỹ hiệp hội này, thông tin của quỹ hiệp hội này, có lẽ có người biết, phần quỹ này, tương lai tôi sẽ dùng để giúp Viện Hán học, làm học bổng cho sinh viên, học phí, sinh hoạt phí của sinh viên, làm điều này. Hán học, Hán học là nền móng của văn hóa truyền thống, là nền tảng của Phật pháp, bởi vì kinh Phật đều là viết bằng cổ văn. Chư vị Đại đức thời xưa, vào triều Hán đã phiên dịch, đã chú giải, rất nhiều kinh được chú giải vào thời Đường và Tống, đều là dùng cổ văn để chú, vì vậy học văn tự vô cùng quan trọng. Hiện nay bị thiếu hụt giáo viên Văn tự học, chúng tôi muốn đào tạo giáo viên, để những giáo viên này có năng lực đọc Tứ Khố Toàn Thư, có khả năng giảng tốt Tứ Khố Toàn Thư, giảng được tốt, giảng được thông suốt, giảng được rõ ràng, giảng được thấu triệt, họ sẽ dạy lại cho thế hệ tiếp theo, truyền mạch Pháp này cho đời sau, điều này quan trọng hơn tất cả. Rất nhiều người lơ là sự việc này, việc người khác làm, việc có rất nhiều người làm, thì tôi không làm, còn việc này không ai làm, nên tôi làm, tôi nghĩ rằng một chút việc này đều quan trọng hơn việc khác.
Cống hiến lớn nhất của nước ta đối với toàn thế giới, đối với toàn nhân loại chính là Tứ Khố Toàn Thư. Trong bộ sách này viết về những điều gì? Từ thời Tam Hoàng Ngũ Đế, liên tục cho đến thời đại Càn Long, cá nhân [biết] tu tâm dưỡng tánh, gia đình hạnh phúc, sự nghiệp thành công, xã hội yên ổn, quốc gia giàu mạnh, thiên hạ thái bình, những trí tuệ, triết lý, phương pháp, kinh nghiệm, hiệu quả: đều có trong bộ sách này, 取之不盡,用之不竭 “thủ chi bất tận, dụng chi bất kiệt” (lấy không hết, dùng không cạn), là bảo bối thật sự, độc nhất vô nhị trên toàn thế giới. Người nước ta tương lai sẽ thống trị thế giới, đây là điều người nước ngoài nói. Tôi giải thích với người nước ngoài rằng, người nước ta thống trị toàn thế giới không giống trong quá khứ, dùng điều gì để thống trị? Văn hoá, không phải chính trị, không phải quân sự, không phải khoa học kỹ thuật, cũng không phải là kinh tế thương mại, chính là Tứ Khố Toàn Thư. Đường Thái Tông đã biên soạn một bộ tinh hoa, được gọi là Quần Thư Trị Yếu. Bộ đó có nửa phần đầu, nửa phần sau vẫn chưa có, thời Tấn trở về trước thì bộ đó đã tuyển chọn rồi, còn thời Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh thì không có người làm, vì thế vẫn cần làm phần tiếp theo, sau khi làm xong phần tiếp theo này, thì Quần Thư Trị Yếu mới là hoàn chỉnh, điều này vô cùng có ý nghĩa. Cho nên chúng ta phải bồi dưỡng nhóm người này, nuôi dưỡng nhóm người này, nguyện vọng lớn nhất là họ có thể làm cho ra phần tiếp theo của Quần Thư Trị Yếu, tương lai kết hợp lại hai phần thượng hạ, thành hoàn chỉnh, đây là sách tinh hoa văn hóa truyền thống nước ta, thật sự là tinh hoa trong tinh hoa, tổng cộng có khoảng một triệu chữ. Nửa phần đầu của Đường Thái Tông đã được làm rồi, hiện nay đã được lưu hành khắp nơi, nửa phần còn lại cần phải chờ những người trẻ nỗ lực. Phát đại tâm đại nguyện này, Tổ tiên gia trì quý vị, Tam Bảo gia trì quý vị, tôi tin rằng quý vị sẽ khai ngộ, không dám nói Triệt ngộ, cũng không đảm bảo Đại ngộ, khẳng định là có Tiểu ngộ, có Tiểu ngộ là có hiệu quả, biên soạn bộ sách này thì có thể có hiệu quả. Vì thế chúng ta phải học theo người xưa, phải học theo Tổ sư Đại đức, cuộc sống sẽ thật nhiều hạnh phúc, đúng như đức Phật đã nói, pháp hỉ sung mãn.
Tiếp theo Niệm lão còn dẫn lời trong Kinh Bát Nhã theo trích dẫn của sư Nghĩa Tịch, 《般若經》說:「云何菩薩少欲,乃至阿耨菩提尚不欲,何況餘欲,是名少欲」 “Bát Nhã Kinh thuyết: Vân hà Bồ-tát thiểu dục, nãi chí A-nậu Bồ-đề thượng bất dục, hà huống dư dục, thị danh thiểu dục“(Trong Kinh Bát Nhã nói rằng: Thế nào là sự thiểu dục của Bồ-tát, cho đến A-Nậu Bồ-Đề còn không mong muốn, huống là dục vọng khác, đó là thiểu dục). Câu này nói rất hay, A-Nậu Bồ-Đề là điều chứng đắc của Phật, chứng đắc A-Nậu-Đa-La Tam-Miệu Tam-Bồ-Đề thì thành Phật rồi. Điều này có ý nghĩa là gì? Bồ-tát ngay cả mong muốn thành Phật mà ngài cũng buông xuống, ngài cũng không đặc biệt truy cầu, hà huống những ham muốn khác, đều buông xuống tất cả ham muốn khác rồi. Dục vọng là phiền toái, dục vọng là chướng ngại, dục vọng là mê, không phải là giác, cần phải buông xuống, điều gì cũng buông xuống. Bồ-tát ứng hoá ở thế gian tuỳ duyên không phan duyên, tuỳ duyên tức là không có dục vọng, tuỳ theo dục vọng của mọi người thì tôi đến giúp đỡ quý vị, đến điều giải cho quý vị. Dục vọng không thể quá mức, vì sao vậy? Bởi quá mức thì mang đến tai họa. Trong kinh đức Phật dạy chúng ta rằng, thuỷ tai từ đâu mà đến? Từ tâm tham mà đến, tham cảm ứng với nước. Hoả tai từ đâu mà đến? Do sân giận cảm đến, quý vị thấy một khi nổi nóng, hoả khí lên cao, hiện nay khí hậu bất thường, nhiệt độ rất cao, điều này là do sự nổi nóng khởi lên quá nhiều, [nếu] cư dân trên trái đất đều không nổi nóng, thì nhiệt độ lập tức sẽ giảm xuống. Hoài nghi chiêu cảm là núi lở đất sụt, trước đây rất ít nghe nói điều này, hiện nay có người kể với tôi, rất nhiều khu vực có hiện tượng này, mặt đất đột nhiên sụt xuống, ngay cả người và xe cộ đều bị đổ vào trong đó, điều này nhà Phật gọi là hoài nghi, đất đá rơi chính là núi lở, cảm [ứng] loại tai nạn này. Ngạo mạn, cảm của ngạo mạn là động đất. Tham, sân, si, mạn, nghi, hoài nghi chính là chiêu cảm núi lở đất sụt. Vì thế năm loại phiền não này, cảm [ứng] với năm loại tai họa. Chúng ta có khả năng buông xuống năm loại phiền não này, không tham thì không có thuỷ tai; Không sân thì không có hỏa tai, không có núi lửa phun trào, cũng không có nhiệt độ quá cao; Không ngu si, thì không có phong tai. Si là phong tai, chúng ta thấy vòi rồng ở nước ngoài, rất đáng sợ, thương hại do vòi rồng [gây ra] cũng rất lớn. Cho nên không có động đất, không có núi lở đất sụt. Những điều này được nói trong kinh Phật, tôi tin rằng hai-ba mươi năm sau, các nhà Khoa học sẽ thừa nhận, mọi người chúng ta đều tin tưởng. Thiểu dục tri túc, là tốt! Sống ở nơi này, thân tâm an ổn, tự tại hạnh phúc, không có tai nạn, ít nhất trong khu đất này sẽ không có tai nạn.
Tiếp theo có nói, 云何菩薩知足,得一切種智,是名知足 “Vân hà Bồ-tát tri túc, đắc Nhất thiết Chủng trí, thị danh tri túc” (thế nào là tri túc của Bồ-tát, đắc Nhất thiết Chủng trí, đó là tri túc). Sự tri túc của Bồ-tát không giống với chúng ta, các ngài nhất định sẽ chứng đắc Nhất thiết Chủng trí, 一切種智就是阿耨多羅三藐三菩提 “Nhất thiết Chủng trí tựu thị A-Nậu-Đa-La Tam-Miệu Tam-Bồ-Đề” (Nhất thiết Chủng trí chính là A-Nậu-Đa-La Tam-Miệu Tam-Bồ-Đề), điều này gọi là tri túc. Các ngài chỉ là đang cầu tri túc trên trí huệ, ngoài sự cầu trí huệ này ra, thì các ngài đều thấy đầy đủ tất cả, các ngài không có mong cầu nữa. 此意 “Thử ý“(Ý này), ý nghĩa điều này, ý nghĩa trong kinh là 不求他境名少欲 “Bất cầu tha cảnh danh thiểu dục” (không cầu nơi cảnh khác là thiểu dục), ngoại trừ Vô Thượng Bồ-Đề ra, thì không cầu. Chúng ta hiện tại học Tịnh tông, ngoại trừ Thế giới Tây Phương Cực Lạc ra, thì không cầu, tôi chỉ cầu vãng sanh Thế giới Cực Lạc, chỉ cầu được thân cận A Mi Đà Phật. Vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, A Mi Đà Phật là thầy, đây là một vị thầy tốt nhất, tôi học với Ngài, Ngài nhất định có thể giúp tôi chứng đắc Vô Thượng Bồ-Đề, chứng đắc Vô Thượng Bồ-Đề, ở Thế giới Tây Phương Cực Lạc thì tốt nghiệp rồi.
Trong này vẫn còn chứa một mật nghĩa, nếu quý vị không tinh tế, thì quý vị sẽ không nhìn ra, tinh tế mới có thể nhìn ra được, là mật nghĩa gì? Thế giới tốt nhất là Thế giới Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc là một Thế giới như thế nào? Là Thế giới của sự cứu cánh viên mãn, trong đó không có người nào tranh danh trục lợi, không có người này phát sinh xung đột với người kia, không có. Giới luật được giảng bởi nhà Phật, Ngũ luân Ngũ thường, Tứ duy Bát đức mà các vị Hiền triết tiền bối nước ta giảng, toàn bộ được thực hành ở Thế giới Cực Lạc, người người tuân thủ, một cách tự nhiên, không có mảy may miễn cưỡng. Ở Thế giới ấy không có tổ chức Quốc gia, không có tổ chức chính trị, tổ chức hành chính, không có, Thế giới Cực Lạc không có Quốc vương; Không có Thượng đế, không giống những gì chúng ta nói, Ngọc Hoàng Đại Đế ở trời Dục giới của chúng ta, ngài là Thiên đế, bên dưới ngài có rất nhiều Đại thần, ngài có tổ chức chính trị, Thế giới Cực Lạc không có [như vậy]. Thế giới Cực Lạc chỉ có một hiện tượng, A Mi Đà Phật là thầy, mỗi người vãng sanh đến đều là học trò, đó là một trường học, là trường học nhưng không có tổ chức của trường học, rất vi diệu. Mỗi một người vãng sanh, đều hóa sanh ở hoa sen trong ao sen Thất Bảo, hoa sen nở ra trong ao báu, người đó xuất hiện, tướng tốt hiện ra, tỏa sáng giống như A Mi Đà Phật, được nói trong 48 lời nguyện.
Không phải 32 tướng và 80 vẻ đẹp, đó là đức Thích Ca Mâu Ni Phật tùy thuận theo cách nói của người Ấn Độ cổ thời ấy. Trên thực tế, thân có 84 nghìn tướng, mỗi một tướng có 84 nghìn tùy hình hảo, mỗi hình hảo phát ra 84 nghìn tia sáng, trong mỗi ánh quang minh, nhìn thấy khắp Pháp giới Hư không giới chư Phật ở trong từng cõi nước đang giáo hóa chúng sanh, giảng kinh dạy học, nhìn thấy toàn bộ vũ trụ ngay ở trên thân người, không thể nghĩ bàn! Vì vậy sau khi hoa nở thì diện kiến đức Phật, tiến vào Đại giảng đường của A Mi Đà Phật, Đại giảng đường có chỗ ngồi của quý vị, trên chỗ ngồi có tên của quý vị, sẽ không bị ngồi nhầm chỗ. Trên hoa sen có tên của quý vị, trên chỗ ngồi cũng có tên của quý vị, tiến vào giảng đường, khi nào đi ra? Khi đã mãn nguyện thì sẽ đi ra. Khi nào mãn nguyện? Thành Phật. Nói cách khác, quý vị vào giảng đường là phàm phu, quý vị rời khỏi giảng đường thì đã thành Phật, chưa thành Phật thì chưa đi ra.
Tuy không đi ra nhưng vẫn có khả năng làm nên việc, không trở ngại quý vị làm việc, quý vị nói kỳ diệu biết bao! A Mi Đà Phật cũng ở giảng đường thuyết pháp, từ trước đến nay không rời khỏi giảng đường. A Mi Đà Phật có thể phân vô lượng vô biên thân, phân thân để làm gì? Để đến mười phương Thế giới tiếp dẫn những người niệm Phật vãng sanh về Thế giới Cực Lạc. Đức Phật phát nguyện đích thân Ngài đi tiếp dẫn, không tiếp dẫn thì họ không biết Thế giới Cực Lạc ở nơi nào, đức Phật đi tiếp dẫn. Đức Phật phân thân, bản thân ở giảng đường không rời đi, còn đang giảng kinh, phân thân là để khởi tác dụng này. Khi mỗi người chúng ta vãng sanh, bước vào ngồi xuống ở giảng đường của A Mi Đà Phật, cũng có năng lực giống như A Mi Đà Phật, phân vô lượng vô biên thân. Phân thân để làm gì? Phân thân đến cõi nước của tất cả chư Phật trong mười phương để cúng Phật, cúng Phật là tu phước, cúng dường, nghe Phật giảng kinh dạy học là tu huệ, phước huệ song tu, đó là đối với chính mình, giúp chính mình không ngừng thăng tiến đi lên, nhanh chóng, mau thành Phật! A Mi Đà Phật là vị thầy chủ yếu, mười phương chư Phật ở bên cạnh giúp đỡ, nâng đỡ quý vị đi lên, đến nơi đâu để tìm cơ hội này? Cơ hội này chỉ có Thế giới Cực Lạc có, ngoại trừ Thế giới Cực Lạc ra, bất kỳ trong quốc độ Phật nào cũng không có, phải nhận thức rõ ràng điều này. Cho nên cơ hội này rất khó đạt được, chúng ta nắm bắt được rồi, vận may không gì sánh được. Đồng thời vẫn còn những sự việc làm kèm theo, giáo hóa chúng sanh. Cõi nước chư Phật trong mười phương đều có những người có duyên với chúng ta, vì sao vậy? Bởi trong đời quá khứ chúng ta đã từng sống ở những nơi đó, ở nơi đó chúng ta có cha mẹ, có họ hàng, có bạn bè, có bạn học, có rất nhiều người quen, một khi quý vị nhìn thấy, sẽ ngay lập tức nhớ lại, đây là ở thời kỳ nào, họ có khổ nạn thì quý vị sẽ đi giúp đỡ họ. Cho nên không thể không đến Thế Giới Cực Lạc, không đến là sai rồi, nhất định phải đến.
Ý nghĩa của đoạn kinh văn này, Niệm lão đã giải thích cho chúng ta, 不求他境名少欲,安住自法名知足。他境即是色等五欲 “Bất cầu tha cảnh danh thiểu dục, an trụ tự pháp danh tri túc. Tha cảnh tức thị sắc đẳng Ngũ dục” (không cầu cảnh khác gọi là thiểu dục, an trú pháp của chính mình gọi là tri túc. Cảnh khác tức là cảnh tượng như Ngũ dục), sắc-thanh-hương-vị-xúc-pháp, được gọi là Ngũ dục Lục trần. 自法即是現量之智 “Tự pháp tức thị hiện lượng chi trí” (Pháp của chính mình là trí của hiện lượng), chính là trí tuệ hiện tại của chúng ta, hiện tại chúng ta có trí tuệ, có thể hiểu rõ chân tướng sự thật, không để những sự tướng đó ở trong tâm, đặt ở trong tâm chỉ có một câu A Mi Đà Phật, tốt, niệm niệm chớ quên. 準義寂意 “Chuẩn Nghĩa Tịch ý” (Chiếu theo ý của ngài Nghĩa Tịch), cách nói của Đại sư Nghĩa Tịch, chính là đoạn này được ngài trích dẫn trong Kinh Bát Nhã, 則不於心外取法,無一法當情者,名為少欲 “Tắc bất ư tâm ngoại thủ pháp, vô nhất pháp đương tình giả, danh vi thiểu dục” (là không lấy pháp ở ngoài tâm, không có một pháp đáng hứng thú, gọi là thiểu dục). Tất cả pháp thế gian và xuất thế gian, bao gồm Phật pháp ở bên trong, cũng đều không đặt ở trong tâm. Kinh điển nhiều như vậy, ngoại trừ Kinh Vô Lượng Thọ ra, thì đều buông xuống tất cả. Tại sao vậy? Bởi chúng ta nhất tâm nhất ý chuyên chọn Thế giới Cực Lạc, học những điều khác thì sẽ phân tâm, sẽ có tạp loạn, không thể chuyên nhất. Trong kinh dạy chúng ta nhất hướng chuyên niệm, chú trọng một điều này một chữ này, một chữ chuyên, không thể làm nhiều. 體露真常,寂滅為樂,如如不動,為知足 “Thể lộ Chân thường, tịch diệt vi lạc, như như bất động, vi tri túc” (Thể lộ Chân thường, tịch diệt là vui, như như bất động, là tri túc). Chúng ta thật sự có thể làm được thiểu dục, nắm vững được niềm vui của thiểu dục, đừng để bị đánh mất, đây là niềm vui thật sự, tịch diệt vi lạc. Như như bất động, bất động là không bị dao động bởi cảnh giới bên ngoài, thuận cảnh: không sanh những loại hoan hỉ cuồng loạn, tâm lý yêu thích, vậy là đã động rồi; Nghịch cảnh: không có sân giận, như như bất động. Bất luận là thuận cảnh hay nghịch cảnh, thiện duyên hay ác duyên tất cả đều tốt, hoan hoan hỉ hỉ, như như bất động, đó là tri túc. 於此少欲知足一句,具如是妙意,足證佛經語深 “Ư thử thiểu dục tri túc nhất cú, cụ như thị diệu ý, túc chứng Phật kinh ngữ thâm” (Ở trong một câu thiểu dục tri túc này, có ý nghĩa vi diệu như thế, đủ chứng minh lời của kinh Phật là sâu xa). Ý nghĩa trong Phật pháp rất sâu, từng chữ từng câu đều có nghĩa lý rất sâu ở bên trong, chúng ta phải nghiêm túc học tập. Thời gian cho hôm nay đã hết, chúng ta học đến đây, thiểu dục tri túc.
(Hết tập 227)
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật đạo
Rộng độ khắp chúng sanh
Nam Mô A Mi Đà Phật
#HoathuongTinhKhong #tinhdodaikinhkhoachu2014