Responsive Menu
Add more content here...

Tập 228 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014-2017

(Giảng lần thứ 4)

PHẨM 8: TÍCH CÔNG LŨY ĐỨC:

Tích Lũy Công Đức

Tập 228

Chủ giảng: Hòa thượng Thích Tịnh Không.

Giảng tại: Chùa Cực Lạc, Đài Nam, Đài Loan.

Thời gian: Ngày 06 tháng 08 năm 2015.

Dịch giả: Như Lộ.

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, kính mời ngồi. Mời mọi người cùng tôi đồng quy y Tam Bảo:

“A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng-Già, chư chúng trung tôn” (3 lần).

Mời xem Đại Kinh Khoa Chú: trang 562, trang 562, hàng thứ bảy từ trái sang, hàng thứ bảy từ trái sang: 專求白法,惠利群生。白法者,白淨之法,指一切善法 Chuyên cầu Bạch pháp, huệ lợi quần sanh. Bạch pháp giả, bạch tịnh chi pháp, chỉ nhất thiết thiện pháp” (Chuyên cầu Bạch pháp, huệ lợi quần sanh. Bạch pháp là Pháp trắng thanh tịnh, chỉ tất cả Pháp thiện). Lời này có vẻ như rất bình thường, nhưng thực tế mà nói là vô cùng quan trọng, đời này của chúng ta, học Phật có thể có chút thành tựu nào hay không: chính ở câu này. Xem đến câu kinh văn này, thì chúng ta nên nghĩ tới, Khởi tâm Động niệm từ sáng đến tối là gì. Ở trong Chú Giải, Niệm lão vì chúng ta mà nói, ‘Bạch pháp là Pháp trắng thanh tịnh, chỉ tất cả Pháp thiện’. Ấn Độ ngày xưa gọi ‘thiện’ là Pháp trắng, gọi ‘ác’ là Pháp đen, dùng đen [và] trắng để làm đại biểu, còn nước chúng ta dùng thiện [và] ác. Thiện [và] ác đều có tiêu chuẩn, khi nhắc đến Phật giáo, chắc chắn mọi người sẽ nghĩ đến: Thập thiện Nghiệp đạo, Pháp thiện này chính là chỉ Thập thiện.

Thập thiện là Giới căn bản, không chỉ người tu học Phật pháp cần phải tuân thủ, mà ngay cả người thế gian, nếu họ muốn cầu cả đời được bình an, gia đình được hạnh phúc, thì cũng phải học tập. Điều đầu tiên là không sát sanh. Từ không sát sanh, suy rộng ra, tuyệt đối không thể não hại chúng sanh, khiến chúng sanh vì ta mà sanh phiền não, vậy thì sai rồi. Chúng ta từ sáng đến tối, [về] ý niệm, ngôn ngữ, hành vi: có thể không khiến chúng sanh sinh phiền não chăng? Chư vị phải biết điều này, phải học tập, đây mới gọi là học Phật. Học Phật thì nhất phải tuân theo: lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đức Phật dạy chúng ta làm, thì chúng ta nghiêm túc nỗ lực đi làm, điều không được làm, thì chúng ta nhất định phải tuân thủ, y giáo phụng hành, vậy mới là một học trò ngoan của Phật.

Hai năm gần đây, chúng ta nghe nói về hành nghi cả đời của lão Hòa thượng Hải Hiền ở chùa Lai Phật, lão Hòa thượng vãng sanh hồi năm trước, vãng sanh vào tháng 1 năm 2013, thọ 112 tuổi. Suốt đời vị lão nhân ấy, từ khi ngài xuất gia, xuất gia lúc 20 tuổi. Điều giới căn bản trong nhà Phật như: Tam phước, Lục hòa, Tam học, Lục độ, Thập nguyện Phổ Hiền, Tam học là Giới Định Huệ, Tam quy, Ngũ giới, Thập thiện, Sa di Luật nghi, ngài đều làm được rồi, thật sự là tấm gương tốt nhất cho chúng ta. Là người thật thà, nghe lời, thật làm, cho nên trong một đời đã có sự thành tựu rất nổi bật. Lão Hòa thượng trụ thế, là do A Mi Đà Phật chỉ thị ngài, ngài tu được rất tốt, mong ngài trụ ở thế gian lâu thêm một chút, trụ thêm vài năm, làm tấm gương tốt cho người học Phật, làm tấm gương tốt cho người niệm Phật, ngài thật sự làm được rồi. 20 tuổi xuất gia, 112 tuổi vãng sanh, học Phật 92 năm, 92 năm, công phu niệm Phật tốt!

Pháp môn niệm Phật này, đời này chúng ta đã gặp được, không thể luống qua. Thế gian quá khổ, phải nhận thức, dù muốn làm một chút việc tốt, cũng chướng ngại trùng trùng. Vì vậy chúng ta phải ghi nhớ, làm việc tốt là cần thiết, nhưng phải tùy phận tùy lực, không có năng lực mà muốn đi làm, vậy thì rất khổ. Muốn làm việc, cần phải có tài lực, còn phải có nhân lực. Sáng hôm nay tôi thấy được, đồng học Australia đã gửi cho tôi một số tư liệu: cho tôi xem, họ muốn mở trường học, mở trường Tiểu học, thành lập một chuỗi trường học liên cấp, chính phủ có thể phê chuẩn. Nhưng tiền từ đâu ra? Tôi không có khả năng này. Người từ đâu ra? Mở trường học, thì mời ai đến làm Hiệu trưởng? Mời những người nào đến dạy học? Tôi không có ai, đơn độc lẻ loi một mình. Học viện Tịnh tông Australia: cũng bất quá chỉ mười mấy người thôi, quý vị có thể dạy không? Giáo viên chính thức là do chính phủ thừa nhận, quý vị không có trình độ chuyên môn này, thì làm sao đây? Có năng lực thì phải làm, là việc tốt, không có năng lực này thì không thể làm.

Cả đời tôi: chưa từng duỗi tay xin tiền người khác, đã đến cuối đời, độ tuổi như vầy rồi, vẫn hỏi người khác xin tiền, thì nói không được. Cúng dường là có, nhưng không nhiều. Ở Hồng Kông tôi đã thành lập một quỹ Hiệp Hội, Quỹ Hiệp Hội ấy: chuyên để làm sự nghiệp giáo dục văn hóa, Phật giáo là sự nghiệp giáo dục văn hóa, đa nguyên văn hóa, tôn giáo đều là sự nghiệp giáo dục văn hóa. Chúng tôi làm công tác này đã có không ít năm, từ năm 1999, chúng tôi đã chính thức tiếp xúc với chín tôn giáo ở Singapore, cùng nhau tổ chức hoạt động, giao lưu, làm ra một số thành tích, đều có lợi ích đối với xã hội, đối với đất nước. Những năm gần đây, công tác này vẫn không gián đoạn, chi phí không nhiều, chúng tôi có thể đảm đương. Hiện tại đến đâu cũng muốn mở viện Hán học, là việc tốt, ở Malaysia thành lập rồi. Tôi không có tiền, là một vị Cư sĩ Lại ở Malaysia, ông ấy là Hoa kiều, trường học đó, khu đất đó: là do đồng tu tặng cho tôi, một mình ông ấy phụ trách xây dựng, ông ấy là nhà doanh nghiệp, nên việc này dễ lo liệu. Tôi không dám hóa duyên với ông, chính mình phát tâm làm, tốt, chúng ta hoan hỉ.

Hán học, cắm rễ từ trên căn bản, đó tức là Văn tự học, trước tiên phải nhận biết chữ Hán. Dùng khóa trình gì? Dùng Thuyết Văn Giải Tự, dùng sách này để cắm gốc. Tháng 5 năm nay, tôi tham gia Lễ hội Vesak: của tổ chức UNESCO được SriLanka chủ trì, chúng tôi cùng với các tôn giáo thân hữu trên thế giới, ở nơi ấy đã tổ chức cuộc họp mặt ba ngày, mọi người đều hết sức hoan hỉ. Sau khi hoạt động ấy kết thúc, tôi tiện thể đến nước Anh để xem thử, trước đây từng đến hai lần, lần này là lần thứ ba, xem thử có duyên phận để có một chút trợ giúp cho Hán học hay không. Tôi đã gặp được một trường Đại học, Hiệu trưởng của Đại học ấy đến thăm tôi, chúng tôi đã tiến hành cuộc nói chuyện dài ba tiếng đồng hồ. Ông ấy vô cùng có hứng thú đối với Hán học, cũng đều rất yêu thích đối với lý niệm, phương pháp, tài liệu dạy học của chúng ta, thật sự có ý muốn hợp tác với chúng ta.

Hợp tác, trường học có đất rồi, muốn thành lập viện Hán học, thì chúng ta phải xây dựng một ngôi trường, vậy là khó khăn rồi, tiền xây trường từ đâu ra? Tôi không có năng lực này. Khả năng cúng dường từ mười phương của chúng tôi hiện giờ, chỉ có thể dùng làm học bổng, trường học này: mỗi năm chúng tôi tặng 30 suất học bổng, nhiều nhất có thể đến 50 suất, số cúng dường mà chúng tôi nhận được đều là lắt nhắt từng ít. Sang bên Anh học tập, một sinh viên cũng phải 10.000 bảng Anh trong một năm, tôi không biết 10.000 bảng Anh đổi được bao nhiêu Đài tệ. Giá trị bảng Anh là cao nhất, tôi ở Hồng Kông thì một bảng Anh là 12 Đô la Hồng Kông, xấp xỉ chắc tương đương 10 đồng Nhân dân tệ, một so bằng 10. Học bổng ấy là chu cấp thường niên, chứ không phải ngắn hạn, mỗi năm đều phải phát, tôi rất sẵn lòng đào tạo 30 đến 50 giáo viên Hán học, Hán học quá quan trọng rồi, hiện tại không có thầy. Tiền này thì có, nhưng tiền xây trường thì không có rồi.

Năm trước, hôm nay Pháp sư Bodagama Chandima Thero, vào buổi trưa chúng tôi dùng bữa cùng nhau, buổi chiều ngài ấy rời khỏi rồi. Năm ngoái chúng tôi đến thăm đất nước Sri Lanka của ngài ấy, họ đề nghị muốn xây dựng trường Đại học Phật giáo, tôi rất tán thành, tôi đem toàn bộ tiền trong ngân hàng đưa cho ngài ấy. Bởi vì tôi hỏi ngài ấy, trường Đại học của ngài, dự trù xây dựng ngôi trường ấy là bao nhiêu? Họ tính theo Đô la Mỹ, là 25 triệu. Tôi đến ngân hàng tính lại sổ sách, tổng cộng được 27 triệu, tặng ngài ấy toàn bộ rồi. Hai năm nay vật giá tăng lên, cần phải tăng thêm dự toán, tôi liền nói với ngài ấy, tôi không có khả năng này, nhưng tôi đưa ra chủ ý cho họ, tôi nói quý vị không cần phải xây dựng toàn bộ, xây dựng trước phần nào đó, đặt tốt nền tảng cho phần còn lại, có tiền thì xây, chưa có tiền thì để ở đó. Họ tiếp nhận phương pháp này rồi, xây phòng học trước, xây phòng ăn trước, xây phòng ở trước, xây xong phần này rồi, thì lập tức có thể vào học, bắt đầu vào học, công trình khác sẽ từ từ. Văn phòng có thể chậm một chút, thư viện có thể chậm một chút, việc này chưa cần thiết, quý vị quản lý tốt trường học rồi, tôi tin sẽ có người giúp quý vị. Hiện tại tiến hành được tương đối khá, hôm nay khi đến đây, đã đem một số ảnh chụp để cho tôi xem, phòng học, nhà ăn, ký túc xá, rất hiếm có, cứ theo phương pháp này mà xây dựng.

Vì vậy, trường học bên đó của Toowoomba thì khó rồi. Mọi người cần phải hiểu rõ về tình hình của tôi, chúng ta đã ở cùng nhau lâu như vậy, nhiều năm như thế, mà vẫn chưa biết sao? Việc mà tôi có thể nghĩ tới là rất nhiều, nhưng chưa chắc có thể làm được, tức là như vừa rồi mới nói, thứ nhất là không có nhân lực, thứ hai là không có tài lực, nhất định phải biết. Trong nước cũng có đồng học mở trường học, cũng vì để xây dựng phòng học cũng là cần tiền. Tôi ở Hồng Kông, chúng tôi đã tổ chức một viện Hán học, khuôn viên viện Hán học có như thế nào? Có một nhà doanh nghiệp rất phát tâm, muốn làm việc tốt, tôi nói việc tốt này cho quý vị làm, tài sản là của quý vị. Mua một ngôi trường, tài sản là của quý vị, cho tôi mượn dùng làm viện Hán học 10 năm, điều này tốt, tài sản là của quý vị. Tôi thích cách làm như vậy. Mười năm chúng tôi làm được rất tốt, hi vọng làm thêm 10 năm, thì quý vị cho mượn thêm 10 năm, nếu chúng tôi không làm nữa, thì quý vị thu hồi lại. Phương pháp này tốt, gọn gàng linh hoạt.

Xưa kia, tôi cũng sống ở Hồng Kông được 10 năm, căn nhà tôi ở là của một lão Cư sĩ, là tài sản cá nhân của bà, tôi mượn dùng, bà nói tôi muốn ở bao lâu thì họ đều cúng dường tôi, tôi đã sống ở đó 10 năm. Gần đây thì có một vị đồng tu, ba năm trước, ông ấy có một căn nhà nhỏ ở nông thôn, rất nhỏ, tổng diện tích căn nhà ấy còn chưa lớn bằng gian nhà này, đại khái chỉ có hai phần ba. Chưa tới, một nửa thôi, tổng diện tích lớn khoảng một nửa, ở nông thôn. Lão Cư sĩ ấy vãng sanh rồi, dặn với bà nhà ông, nhất định phải cúng dường căn nhà nhỏ ấy cho tôi, hi vọng tôi trụ lâu ở Hồng Kông. Tôi vừa thấy đã rất hoan hỉ, sống ở trên núi, hướng ra là núi xanh, hoa cỏ cây cối, nghe không đến tiếng nói chuyện của người khác, cũng nghe không đến tiếng xe cộ, một gian nhà nhỏ rất tốt để thật thà niệm Phật, tôi tiếp nhận rồi. Tôi đã trả lại căn nhà ở Tiêm Sa Chủy cho bà lão. Tuổi tác lớn như vậy, nói đi thì đi thôi, không tìm phiền phức nữa. Muốn làm một số việc, cho tôi cung cấp một vài kiến nghị, điều này có thể, tôi cũng rất hoan hỉ. Trên thực tế tuổi tác quá lớn, không thể bận tâm, nên bận tâm làm khi còn trẻ, bận tâm vào lúc này là quá đỗi sai lầm, ấy là khiến người cười chê. Cho nên tôi sẵn lòng giúp mọi người.

Chùa Cực Lạc ở Đài Nam, đây là ngôi chùa trường học duy nhất ở Đài Loan mà trong tâm tôi tưởng tượng đến, hi vọng ở bên này thành tựu một nhóm Pháp sư trẻ, giảng kinh dạy học, hi vọng bồi dưỡng người như thế. Ở nơi đây đủ dùng, điều kiện đều có thể phù hợp, người thật sự đến học, chúng ta cúng dường họ, chúng ta phụ trách việc ăn ở, ở nơi này họ siêng năng học Kinh giáo. Ở đây không có người dạy, học bằng cách nào? Dạy học bằng đĩa CD. Mỗi buổi học chúng ta đều có đĩa CD ghi lại, đều lưu trữ ở nơi đây, nếu quý vị muốn học Kinh Vô Lượng Thọ, thì cho quý vị toàn bộ CD này, quý vị nghe mỗi ngày, mỗi ngày nghe 10 tiếng. Giống như Cư sĩ Lưu Tố Vân ở Đông Bắc, cô chuyên nghe Kinh Vô Lượng Thọ, mỗi ngày cô nghe một đĩa CD, khi ấy, 20 năm trước, một đĩa CD chỉ có một giờ, nghe 10 lần, thời gian còn lại thì niệm A Mi Đà Phật. Nghe suốt 10 năm, không có gián đoạn, mỗi ngày 10 tiếng đồng hồ, vì thế đã nghe bộ Kinh Vô Lượng Thọ này mấy chục lần. Hiện tại diễn giảng ở khắp nơi, giảng được rất hay, rất được hoan nghênh, Pháp duyên thù thắng. Đây là trường hợp dùng đĩa CD học tập mà thành tựu.

Tôi cũng thường hay suy nghĩ, 20 năm sau, có thể trong trường Đại học không có Giảng viên nữa. Tại sao vậy? Bởi người học tập thật sự là đời sau không bằng đời trước. Lấy chính chúng tôi để làm ví dụ, đời này của tôi, thế hệ trước là lão Cư sĩ Lý Bỉnh Nam, Giáo sư Phương Đông Mỹ, Đại sư Chương Gia, tôi kém quá nhiều so với các ngài rồi, khoảng cách quá lớn! Những học trò mà chúng tôi dẫn dắt trong đời này, cũng là khoảng cách rất lớn so với tôi, vậy thế hệ sau của chúng ta làm sao đây? Không ai dạy nữa. May mà hiện nay có những Khoa học Công nghệ này, có thứ này thì chúng ta có thể tận dụng để truyền thông, vậy thì không sợ nữa. Chúng ta dùng biện pháp cũ của nuóc ta, biện pháp cũ là ‘nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu’, học thì chỉ cần học một môn thôi, học một môn 10 năm thì chẳng có gì mà không thành tựu. Cô Lưu Tô Vân thành tựu rồi, chú Hồ Tiểu Lâm thành tựu rồi, chú Hồ Tiểu Lâm chuyên về Đại Thừa Khởi Tín Luận, cũng là đọc từ đầu đến cuối bộ sách này, đã đọc một ngàn lần, đã xem Chú sớ trên 100 lần. Hiện tại giảng Khởi Tín Luận thì đây là một chuyên gia, tuy là Cư sĩ tại gia, nhưng tôi thấy không có Pháp sư nào có thể sánh được với chú ấy, chú ấy đã hạ 10 năm công phu trên bộ sách ấy. Hiện nay tìm không có người như vậy nữa.

Người thật sự muốn học, thì hai tấm gương này bày ở trước mắt quý vị, chỉ cần quý vị dựa theo phương pháp này để tu học, thì 10 năm bảo đảm quý vị thành tựu, hơn nữa thành tựu của quý vị sẽ rất thù thắng, không phải là thành tựu thông thường. Thông bộ Kinh này rồi, thì bộ kinh nào cũng thông, Kinh điển mà chưa từng học qua, quý vị cầm tới tay sẽ không mới lạ, chỉ cần quý vị dành thời gian ngắn để chuẩn bị, thì quý vị có thể giảng được rất hay, thông một kinh thì thông tất cả kinh. Phải phát tâm! Thật sự phát tâm, [thì] có Tam Bảo gia trì, có Phật Bồ-tát bảo hộ, buông xuống tất cả đời sống của chính mình, đừng nghĩ nữa, để Phật Bồ-tát an bài. Về việc này, năm xưa Đại sư Chương Gia dạy cho tôi, chúng ta chỉ chuyên tâm vào việc học tập Kinh giáo, đối với chính mình ngày mai phải làm sao, phải sống tiếp thế nào, đừng để ý tới. Hôm nay trôi qua rất tốt thì tốt rồi, hà tất gì cứ nghĩ ngày mai? Tâm của quý vị có thể chuyên chú, thì mới có thể học tốt những điều này. Cả đời tôi không có đạo tràng, ở đạo tràng của người khác, có duyên thì ở thêm một khoảng thời gian, không có duyên thì ở tạm vài hôm, hoan hoan hỉ hỉ, tôn trọng lẫn nhau, tôn kính lẫn nhau. Điều trong Kinh giáo thật sự yêu cầu đối với chúng ta, thì chúng ta tận lực gắng sức đều làm được.

Tiếp theo quý vị xem trích dẫn từ quyển thứ bảy của Đại Thừa Nghĩa Chương nói rằng: 善法鮮淨,名之為白 “Thiện pháp tiên tịnh, danh chi vi bạch” (Pháp thiện tươi đẹp thanh tịnh, gọi đó là trắng). Trong Chú Giải của Đại Thừa Khởi Tín Luận nói, do Tổ sư Đại đức giảng. ‘Tiên’ là tươi đẹp, ‘tịnh’ là thanh tịnh, không có ô nhiễm, ‘tiên’ là không có lỗi thời, đặc biệt trong sạch. Phật pháp mãi mãi sẽ không lỗi thời, phù hợp với quá khứ, cũng phù hợp với hiện tại, tương lai 3.000 năm sau vẫn là phù hợp, nên gọi là tươi đẹp thanh tịnh. Gọi đó là Pháp trắng, Pháp thiện, Pháp thiện chân thật. Bản Ngụy Dịch, là Kinh Vô Lượng Thọ của chúng ta: bản mà ngài Khương Tăng Khải phiên dịch: 清白之法 “Thanh bạch chi pháp” (Pháp thanh bạch), trong văn kinh lấy câu này, ‘Pháp thanh bạch’. Câu ở đây là: 專求白法 “Chuyên cầu Bạch pháp” (Chuyên cầu Bạch pháp), ý nghĩa hoàn toàn như nhau. Tịnh Ảnh Sớ, là Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ của Pháp sư Huệ Viễn vào thời nhà Tùy, giải thích câu này trong Nghĩa Sớ là: 所顯之法,出離邪謗 “Sở hiển chi pháp, xuất li tà báng” (Pháp được hiển bày, vượt khỏi sự tà báng). ‘Tà’ là không chánh, ‘báng’ là hủy báng, hoàn toàn không có sự hủy báng đối với Chánh pháp, đây gọi là ‘thanh bạch’.

《嘉祥疏》曰:是無漏明,故云清白 “Gia Tường Sớ viết: Thị Vô lậu minh, cố vân thanh bạch” (Trong Gia Tường Sớ nói: Là Vô lậu minh, nên gọi là thanh bạch). Đây đều là giải thích ý nghĩa của hai chữ ‘thanh bạch’ cho chúng ta. ‘Vô lậu’ là Pháp thiện, ‘Hữu lậu’ là bất thiện, đây là dùng tỉ dụ để nói, trên kinh Phật dùng được rất nhiều. ‘Lậu’, ví như tách trà, tách trà bị bể, sau khi rót nước vào thì rỉ sạch hết, đó gọi là ‘Hữu lậu’; ‘Vô lậu’, đó là đồ đựng rất hoàn thiện, rót nước vào sẽ không rỉ mất. Đây là tỉ dụ cho việc học Đạo của chúng ta, Phiền não nặng, Tập khí sâu, đó tức là Hữu lậu, những gì học thì như thế nào? Đều chảy sạch hết, chảy mất rồi. Nếu ý chí kiên quyết, chân thành, thanh tịnh, cung kính, quý vị học cách này thì sẽ hoàn toàn tiếp nhận, trở thành được thọ dụng của chính quý vị, đó là Vô lậu. Pháp Vô lậu là thanh bạch, ‘thanh’ là rời khỏi ô nhiễm, ‘bạch’ là rời khỏi tà ác, rời khỏi tối tăm, là Trí huệ, ‘bạch’ là nói từ trên Trí huệ, ‘thanh’ là nói từ trên Giới luật, Giới luật, trì Giới thanh tịnh, có Định có Huệ. Cho nên hai chữ ‘thanh bạch’ này, cũng có thể nói chính là Tam học Giới Định Huệ. 《會疏》云:大乘法,名為清白 “Hội Sớ vân: Đại thừa pháp, danh vi thanh bạch” (Trong Hội Sớ nói: Pháp Đại thừa, gọi là thanh bạch). Cho nên ý nghĩa của hai chữ ‘thanh bạch’ rất rộng, hễ là pháp Đại thừa thì đều gọi là ‘thanh bạch’.

惠利 “Huệ lợi” (Về chữ huệ lợi), ‘huệ’ là ban giúp cho, bố thí, tức là biếu tặng cho người khác; ‘Lợi’ là lợi ích, chỗ này nói cứu tế, là lợi ích, là giúp người khác, người khác có khó khăn, chúng ta nên đi giúp họ, đó gọi là cứu tế. 故經義為:專求無漏大乘清淨之法,用以普施有情,利樂群生 “Cố Kinh nghĩa vi: Chuyên cầu Vô lậu Đại thừa thanh tịnh chi pháp, dụng dĩ phổ thí Hữu tình, lợi lạc quần sanh” (Nên ý nghĩa của Kinh là: Chuyên cầu pháp Đại thừa Vô lậu thanh tịnh, dùng để rộng ban cho Hữu tình, lợi lạc chúng sanh). Những câu này giảng rất sáng tỏ, đã nói ra ý nghĩa của hai câu này rồi, phải chuyên cầu. Pháp Đại thừa Vô lậu thanh tịnh là gì? Nói theo nghĩa rộng, tất cả Kinh luận Đại thừa đều là như vậy. Thế thì hôm nay chúng ta học Pháp môn này, là một môn vô cùng thù thắng trong Đại thừa, hiếm có khó gặp. Vì sao vậy? Bởi tất cả pháp Đại thừa, pháp Tiểu thừa: đều phải đoạn Phiền não [mới] chứng Bồ-đề, không có một pháp nào mà ngoại lệ, đoạn Phiền não thì khó! Phiền não Tập khí của chúng ta có thể được đoạn sạch không? Quý vị cứ thử xem, xem có thể đoạn sạch chăng?

Cấp bậc thấp nhất trong Đại Tiểu thừa, Tiểu thừa là Sơ quả Tu-đà-hoàn, Đại thừa là Sơ tín vị Bồ-tát: trong Thập tín. Thập tín ví như Tiểu học, có mười lớp, quý vị là ở lớp 1. Điều kiện của lớp 1 là gì? Đoạn sạch sẽ Kiến tư Phiền não năm loại Kiến hoặc rồi, mới có thể chứng được Sơ tín vị, Tiểu thừa mới có thể chứng được Tu-đà-hoàn. Chúng ta có thể làm được không? Quá khó rồi, suốt đời cũng làm không được, tu hành cả đời như vậy [cũng] không thể chứng quả. Có chỗ tốt hay không? Có, chỗ tốt gì? Có thể giúp quý vị sanh lên cõi trời, phước báu nhân thiên ở đời sau, điều này chính là lợi ích. Ngày nay chúng ta thấy được trong xã hội này, người có phước báo nhân thiên rất nhiều, bởi vì nguyên nhân gì? Trong đời quá khứ tu hành chưa đến nơi, chưa đoạn sạch năm loại Kiến hoặc, cho nên biến thành phước đức rồi, không có công đức nữa, biến thành phước đức, phước đức nhân thiên, là sự việc như vậy. Là chân tu, họ không phải là giả, nhưng chưa đoạn Hoặc.

Năm loại Hoặc này là gì? Chúng ta phải biết, không thể quên mất, thời thời khắc khắc nhắc nhở, quán sát: thì sẽ hiểu được đi con đường này không thông. Đầu tiên là Thân kiến, có người nào mà không xem thân cho là ta, ta, ta chính là thân này, việc này khó rồi. Có ta thì có tự tư tự lợi, thì có danh văn lợi dưỡng, thứ này là gốc của Phiền não. Đức Phật nói với chúng ta, thân không phải là ta, tại sao vậy? Bởi có ngã, có Chân ngã, Chân ngã thì không thể nói là thân, mà cũng không thể nói không phải là thân. Rốt cuộc là gì? Đó là sở hữu của ta, giống như y phục, y phục không phải là ta, chúng ta rất rõ ràng điều này, thì sẽ không chấp trước đó là ta, đó là sở hữu của ta. Thân này là thứ ta có được, không phải là ta, ta [là] không sanh không diệt. Vậy thì làm rõ ràng rồi, thân này có sanh có diệt, ta [thì] không sanh không diệt.

Nhà Khoa học hiện thời cũng làm rõ ràng rồi, cũng biết thân này là giả, không phải là thật, sanh diệt trong sát-na. Chúng ta thấy không được, tần số ấy quá cao, tốc độ quá nhanh. Bây giờ chúng ta xem Tivi, một giây trên Tivi, hình ảnh sanh diệt bao nhiêu lần? Có bao nhiêu người biết? Tôi tin rất nhiều người đều biết, là 100 lần. Hình ảnh trên Tivi, một giây sanh diệt 100 lần, cũng tức là nói 100 hình ảnh: thì trong một giây đã phát xong rồi, là Tivi. Vậy hoàn cảnh thực tế của chúng ta, một giây sanh diệt bao nhiêu lần? Bồ-tát Di Lặc nói với chúng ta, một ý niệm, niệm trước diệt, niệm sau sanh, là 320 ngàn tỷ niệm, một búng tay, không phải là một giây. Trong một búng tay, có 320 ngàn tỷ niệm, mỗi ý niệm là một lần sanh diệt, niệm trước diệt, niệm sau sanh, niệm này nối tiếp niệm kia, trong một búng tay. Một giây có thể búng bao nhiêu lần? Người trẻ thể lực tốt thì có thể búng bảy lần, đại khái tôi có thể búng được năm lần, lớn tuổi thể lực đã suy, thanh niên thì có thể búng được bảy lần. 320 ngàn tỷ niệm nhân với 7, đó tức là số lần sanh diệt trong một giây, ra được kết quả, là 2 triệu 240 ngàn tỷ, đơn vị là ngàn tỷ, chứ không phải là vạn. 2 triệu 240 ngàn tỷ lần trong một giây, chúng ta làm sao có thể biết đó là giả chứ? Đại khái tất cả hiện tượng vật chất: đều là ảo tướng được sanh ra trong tần số này, không thể đạt được. Trong Kinh Bát Nhã nói rất hay: 一切法無所有、畢竟空、不可得 “Nhất thiết pháp vô sở hữu, tất cánh Không, bất khả đắc” (Tất cả pháp không sở hữu, rốt ráo Không, không thể đắc). Hết thảy tất cả hiện tượng vật chất, bao gồm cả hiện tượng tinh thần, hiện tượng tinh thần là ý niệm, tất cả đều là được sanh ra dưới tần số này.

Bí ẩn này, bí ẩn của vũ trụ, đã được nhà Cơ học Lượng tử hiện đại khám phá rồi, cũng chẳng qua mới hai mươi mấy năm, nhà Khoa học sáng tỏ rồi. Sau khi họ làm rõ ràng, làm sáng tỏ, thấy được điều trên kinh Phật nói, thì bội phục đến năm vóc sát đất. Khoa học đã nghiên cứu 400 năm, thế hệ này nối tiếp thế hệ kia, đến hiện nay dựa trên kinh nghiệm, thiết bị tiên tiến đã quan sát phát hiện được. Còn đức Phật Thích Ca Mâu Ni vào 3000 năm trước, không có Khoa học, không có máy móc, làm sao Ngài có thể biết? Vả lại giảng được còn rõ ràng, còn tường tận hơn nhà Khoa học. Thế nên, Phật pháp Đại thừa là Khoa học rốt ráo, rốt ráo tức là đến đỉnh điểm rồi, không còn đi lên thêm nữa, là Triết học cứu cánh. Chúng ta thấy được báo cáo của nhà Khoa học: vừa nhìn liền hiểu, nội dung của Phật pháp Đại thừa là giảng những gì, thì chúng ta hoàn toàn minh bạch rồi.

Phật pháp là giáo dục, tôn giáo là giáo dục. Chữ ‘tôn’ ở nước ta, có ba ý nghĩa, quý vị tra từ điển đều có thể tra ra, ‘tôn’ có ba ý nghĩa: Là chủ yếu, trọng yếu, tôn kính, ‘giáo’ cũng có ba ý nghĩa: Là giáo dục, giáo học, giáo hóa. Gộp hai chữ này lại, là giáo dục chủ yếu, giáo học trọng yếu, giáo hóa tôn kính. Nếu nói rõ ràng hơn một chút, thêm vào hai chữ ‘nhân loại’, thì tôn giáo là giáo dục chủ yếu, giáo học trọng yếu, giáo hóa tôn kính của nhân loại. Dạy điều gì? Phật pháp là tiêu chuẩn nhất, giáo dục của Phật-Đà chia làm hai bộ phận, một bộ phận là pháp thế gian, là giáo dục phổ thông, một bộ phận là giáo dục cao cấp, cũng tức là pháp xuất thế gian. Pháp thế gian, trên kinh Phật giảng cho chúng ta là Giới, Định, Trí huệ thế gian, giáo dục Luân lý, giáo dục Đạo đức, giáo dục Nhân quả, giảng ba loại, ba loại lớn này. Nâng cấp lên thêm, là Khoa học cấp cao, Triết học cấp cao, thậm chí còn đạt đến đỉnh cao tột bậc của Triết học và Khoa học trên cả thế giới, đỉnh cao nhất, không còn đi lên thêm nữa. Chúng ta có lý do để tin tưởng, qua thêm hai-ba mươi năm, nhà Khoa học cũng thừa nhận Phật giáo là Khoa học bậc cao, Triết học bậc cao, không còn nói là mê tín nữa, phải nhận thức rõ ràng, làm sáng tỏ điều này.

Chúng ta học gì? Kết quả cuối cùng là gì? Hoàn toàn thông đạt hiểu rõ đối với chân tướng của vũ trụ nhân sinh, đó là thành Phật, đại trí huệ hiện tiền. Tiểu trí huệ đủ để, cũng là lời mà Thánh hiền đã nói, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, là tiểu trí huệ, Tiểu ngộ. Đại triệt Đại ngộ, thì làm Phật rồi, có năng lực để giáo hóa tất cả chúng sanh trong khắp Pháp giới Hư không giới. Tất cả chúng sanh ấy, trên nhất là bao gồm Pháp thân Bồ-tát, dưới đến Địa ngục Vô gián, quý vị đều có năng lực, đều có trí huệ, đều có phương pháp để giúp họ. Đó là thành Phật rồi.

Quý vị thấy sau khi thành Phật, ‘dùng pháp Vô lậu Đại thừa thanh tịnh, để rộng ban cho Hữu tình, lợi lạc chúng sanh’, chúng sanh đây tức là như vừa mới nói, từ Bồ-tát đến ba đường ác, làm sự việc này, sự việc này là đại sự có ý nghĩa nhất, đừng sợ không có thầy. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ bi, vì chúng ta mà làm ra thị hiện, thầy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni là ai? Không có ai cả, Ngài xuất hiện ở thế gian này của chúng ta, Ngài không tìm được thầy. 19 tuổi xuất gia, buông xuống Phiền não chướng, ra đi để làm gì? Cầu học, làm một vị Tăng khổ hạnh, giữa trưa ăn một bữa, đêm ở dưới tàng cây. Ấn Độ vào thời đó, là đất nước tôn giáo, đất nước Triết học, ở Ấn Độ vô cùng phát triển hai môn này, Ngài đến thân cận, đến học tập, Ngài đều đã học tất cả tôn giáo, Ngài cũng học hết thảy học phái rồi, dành suốt thời gian 12 năm, phát hiện như thế nào? Không thể giải quyết vấn đề. Vấn đề gì? Vấn đề vượt khỏi Lục đạo Luân hồi, học những tôn giáo ấy, học những Triết học ấy, ra không nổi sáu cõi Luân hồi. nên đã từ bỏ, lúc 30 tuổi, năm ấy 30 tuổi, buông bỏ rồi, buông bỏ rồi là buông xuống Sở tri chướng. Đều đã buông xuống hai loại chướng ngại ấy, Ngài đến tọa thiền dưới cây Tất-bát-la, nhập định. Trong sát-na xuất định ấy, khai ngộ rồi, thấy được một ngôi sao rất sáng trên bầu trời, khoát nhiên đại ngộ. Cây Tất-bát-la sau này được gọi là cây Bồ-đề, bởi vì đức Phật đã thị hiện khai ngộ chứng quả ở dưới cội cây này.

Sau khi khai ngộ, Ngài cũng vẫn không đứng dậy, Ngài vẫn đang nhập định. Ở trong định, trong nhị thất nhật, hai lần bảy là 14 ngày, cũng có khi nói tam thất nhật, ba lần bảy là 21 ngày, cũng có cách nói như thế, tổng thời gian không dài là vậy thôi, dài nhất cũng không quá 21 ngày, trong định giảng Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Kinh Hoa Nghiêm không phải là giảng ở thế gian chúng ta, mà là giảng ở trong định, thính chúng là những ai? Là 41 địa vị Pháp thân Đại sĩ. Nói cách khác, nếu chưa Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, thì quý vị vào không nổi cảnh giới của Ngài, không thể tham gia hoạt động này của Ngài; Tham gia hoạt động này, nhất định là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, là Pháp thân Bồ-tát. Sau khi giảng xong bộ kinh ấy, thì Ngài xuất định, sau khi xuất định ra, Ngài đến vườn Lộc Dã để tìm năm vị Tỳ-kheo, năm người ấy là bạn đồng hành của Ngài. Ngài xuất gia, Phụ vương của Ngài không yên tâm, đã phái năm người đi theo, đó tức là năm vị Tỳ-kheo sau này. Ở vườn Lộc Dã Ngài giảng cho họ Kinh A Hàm, giảng Khổ Tập Diệt Đạo của Tứ đế, ngài Kiều Trần Như là người khai ngộ đầu tiên, chứng quả A-la-hán. Như vậy thế gian này đã đầy đủ Tam Bảo, có Phật, có Pháp, có Tăng. Từ hôm ấy liền bắt đầu mở lớp học, mỗi ngày giảng kinh dạy học. A Hàm là một chủ đề lớn: đã giảng 12 năm. Đó là cấp Tiểu học mà đức Phật đã mở, trình độ của mọi người đều chưa đủ, rất thấp, phải bắt đầu từ việc cắm gốc.

Giống như chúng ta bây giờ, hi vọng mở viện Hán học trong trường Đại học, nhưng chưa có thầy, vậy phải làm sao? Tốt nhất là thiết lập một lớp thực nghiệm dưới bậc Đại học, lớp thực nghiệm Cổ văn Hán ngữ, để bồi dưỡng gì? Bồi dưỡng nền tảng, nền tảng của Hán học nên bén rễ từ đây, 3 đến 5 năm, ít nhất là 3 năm, nhiều nhất là 5 năm. Cắm rễ ấy xuống, thì họ mới có thể đạt được tư cách Giáo thọ của Hán ngữ, tức là họ có thể lấy được học vị Tiến sĩ, có học vị, thì họ có thể tiếp nhận giấy mời làm Giảng viên Hán học của trường Đại học. Chúng ta hi vọng 3 tới 5 năm có thể đào tạo được: 30 đến 50 người, có thể có 30 giáo viên tốt như vậy, thì có thể nâng cấp lớp thực nghiệm này chính thức thành viện Hán học, viện Hán học này có 30 giáo viên thì được rồi, lại chiêu sinh với quy mô lớn, chính thức thành lập. Chúng ta có cách nghĩ như thế. Ngạn ngữ nói rất hay: 謀事在人,成事在天 “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên” (Lo việc ở người, việc thành ở trời), chúng ta có cách nghĩ này, có nguyện vọng này, ‘thiên’ là gì? Phải có người đến giúp, phải có nhân tài xuất hiện, phải có tài lực chi viện, đó là ý trời. Nếu không có nhân tài, không có tài lực chi viện, vậy thì làm sẽ không thành.

Cho nên, ‘mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên’, điều nào tốt vậy? Điều phía trước tốt, vì sao? Bởi ‘mưu sự tại nhân’, mà không có người hiệp trợ, cũng không có tài lực hỗ trợ, thì làm không được, nhưng công đức của quý vị là viên mãn. Tại sao vậy? Vì điều kiện của duyên không phù hợp, nhưng công đức là viên mãn, trong Kinh Lăng Nghiêm nói: 發意圓成,圓滿功德 “Phát ý viên thành, viên mãn công đức” (Phát ý viên thành, công đức viên mãn), chỉ cần quý vị phát tâm, thì công đức viên mãn rồi. Chẳng phải là không làm, mà là thật sự muốn làm, nhưng duyên không đủ, không có người giúp, cũng không có tài lực, cho nên công đức là như nhau. Tôi thiếu khuyết ngoại duyên này, có ngoại duyên này thì tôi sẽ làm được rất tốt, không có ngoại duyên này, buộc tôi phải làm không thành. Nhưng chẳng phải là tôi không có tâm, mà là có tâm, công đức của việc có tâm này là không thể nghĩ bàn.

Đoạn sau đây cũng giải thích câu văn kinh này: 『志願無倦』 “Chí nguyện vô quyện” (Chí nguyện không có mệt mỏi), tôi vừa mới nói. Chí nguyện của chúng ta là nhất định có, sẽ không giải đãi, sẽ không mệt mỏi, vấn đề chính là có người giúp hay không, có tài lực hay không. Đó là ý trời, đó không phải là ý người, vì sao vậy? Bởi trong mạng chúng tôi không có, trong đời quá khứ không có tu. Chúng tôi hiểu đạo lý này, 64 năm trước thầy đã nói với tôi, trong mạng không có của cải, trong đời quá khứ không có tu Bố thí tài; Nhưng trong mạng vẫn còn một chút trí huệ, trong đời quá khứ từng tu Bố thí pháp; Thọ mạng ngắn, 45 tuổi thì hết rồi, trong đời quá khứ không có tu Bố thí Vô úy. Vậy nên thầy giúp tôi bồi đắp phước huệ này, bèn dạy tôi phải siêng năng tu bố thí tài. Tôi nói ‘con không có tiền, đời sống cũng rất khó khăn, thì tiền đâu để bố thí ạ?’ Thầy hỏi tôi, một cắc có không? Một cắc thì có. Một đồng có không? Một đồng thì có. Con cứ bắt đầu bố thí từ một cắc một đồng. Một cắc một đồng này đến đâu để bố thí? Trong chùa có, in kinh trong chùa, quý vị thấy có người phát tâm in kinh, ở bên ngoài quyên góp, mọi người tùy ý ghi, bất luận bao nhiêu, một cắc họ cũng nhận, chẳng phải là họ không nhận, họ cũng nhận, một đồng cũng nhận, đó là chỗ tốt để tu Bố thí. Thêm một chỗ khác, là phóng sanh, phóng sanh là tu Bố thí Vô úy, trong chùa thường có, thường xuyên gặp được. Vậy nên trên thân có bao nhiêu thì đều có thể lấy [bố thí] bấy nhiêu, công đức viên mãn.

Thầy nói với tôi càng thí càng nhiều, ba loại Bố thí được ba loại lợi ích, Bố thí tài, thì tài dùng không thiếu; Bố thí pháp, thì trí huệ tăng trưởng; Bố thí Vô úy, thì khỏe mạnh trường thọ. Tôi liền thật làm, tôi có thể có một chút thành tựu, cũng tức là có một chút nền tảng như vậy, lão thật, nghe lời, thật làm. Tôi tin tưởng thầy, thầy sẽ không hại tôi, thầy hi vọng tôi tốt, thật tu. Tu 5 tháng, nửa năm, thì xuất hiện hiệu quả, thu nhập bèn nhiều hơn một chút. Sau đó thì phát tâm xuất gia. Phật pháp thật sự có thể cải tạo vận mệnh của một người, vận mệnh là do chính mình tạo, gia vận cũng là do người nhà quý vị tạo dựng, quốc vận là do nhân dân cả nước tạo dựng, mọi người đều có thể đoạn ác hướng thiện, thì vận nước sẽ tốt, cùng một đạo lý.

Tôi xuất gia, là do Đại sư Chương Gia dạy tôi, tôi [sống] một mình ở Đài Loan, không có lo lắng, không có nỗi lo đằng sau, thầy nói phương pháp tốt nhất, là xuất gia. Xuất gia, học đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thầy dạy tôi xem hai bộ sách, Thích Ca Phổ, và Thích Ca Phương Chí. Lúc ấy mua không được hai cuốn sách này, nhưng có trong Đại Tạng Kinh, nên tôi liền đến chùa Thiện Đạo: mượn Kinh sách ra để chép lại, Đại Tạng Kinh không được mang ra khỏi cửa, chỉ có ngày nghỉ cuối tuần để chép kinh. Trước sau tôi đã chép được mười mấy bộ, phân lượng đều không quá lớn, là do thầy dạy cho. Người hiện nay phước báo lớn, Kinh sách mà ở Đài Loan in đã quá nhiều, không phải để bán, mà đều là để kết duyên, kết duyên với toàn thế giới. Sau khi xuất gia, tôi đã đọc Ấn Quang Đại Sư Văn Sao, do Pháp sư Sám Vân dạy tôi đọc. Sau khi đọc rồi, thì tôn trọng đối với Tịnh Độ, vẫn là không muốn học, nhưng tôi rất bội phục hành nghi của Pháp sư Ấn Quang, cả đời tôi học ngài. Tứ chúng cúng dường cho tôi thì tôi làm gì? Tôi không có xây chùa, tôi in kinh bố thí hoàn toàn, là làm việc này. Cả đời Đại sư Ấn Quang chỉ làm sự việc này, gặp lúc có tai nạn, những tai nạn như hạn hán, lũ lụt, lão Hòa thượng cũng cứu tế, tiền cứu tế từ đâu ra? Là trích ra một ít từ khoản tiền in kinh để cứu trợ thiên tai. Là lấy in kinh làm chính, lấy cứu nạn làm thứ hai. Tôi học được điều này rồi.

Vì vậy, Kinh sách mà tôi in trước sau, bộ lớn, như Đại Tạng Kinh, mấy năm qua cho tới nay: đại khái chắc khoảng bảy-tám ngàn bộ rồi, mục tiêu của tôi là 10 ngàn bộ, tặng một vạn bộ Đại Tạng Kinh. Ngoài ra, trong kho sách ở chỗ tôi, quý vị thấy được: Tứ Khố Toàn Thư, Tứ Khố Hội Yếu, đó là bảo điển của văn hóa truyền thống nước ta, đại biểu cho văn hóa truyền thống nước ta. Do Nhà xuất bản Thương Mại in, tôi đã mua 112 bộ, họ tính giá đặc biệt cho tôi, mỗi bộ 50.000 Đô la Mỹ, xấp xỉ gần 6 triệu. Bộ Tứ Khố Hội Yếu mà Nhà sách Thế Giới xuất bản, phân lượng là 1/3 Toàn Thư, do chính Hoàng đế Càn Long nghiên cứu, giá trị này còn có thể cao hơn Tứ Khố Toàn Thư. Mấy năm nay, trước sau tôi đã mua 300 bộ từ họ, tặng cho Thư viện Đại học, Thư viện Quốc gia trên toàn thế giới để họ cất giữ. Tại vì sao? Vì tôi sợ tai nạn, lời đồn về tai nạn quá nhiều, tôi thì không tin tưởng, nhưng cũng không thể không đề phòng một chút, ngộ nhỡ khi tai nạn đến, những sách này không còn nữa thì đáng tiếc lắm, đó thật là sự tổn thất không gì sánh bằng của nhân loại. Cho nên tôi in nhiều như vậy, phân phát khắp nơi, tai nạn cũng không thể làm tiêu mất hoàn toàn, sẽ luôn còn một số được bảo tồn lại, tôi là nghĩ như vậy. Người xưa cất vào các danh sơn, chạm khắc trên phiến đá, chôn trong hang động, như Đại Tạng Kinh, Thạch kinh Phòng Sơn, tôi đã từng đi xem. Bộ Tạng Kinh bằng đá ấy được điêu khắc đã 800 năm, là một bộ Đại Tạng Kinh hoàn chỉnh, nếu như có một trận động đất lớn, thì xong rồi. Cho nên cách tốt nhất vẫn là in ấn nhiều phát tán nhiều, khắp nơi đều có, vậy thì sẽ không bị mất. Đây là một việc lớn mà tôi làm, hi vọng giúp văn hóa nước ta vĩnh viễn truyền xuống ở trên thế giới này.

Sách thì không có vấn đề, vấn đề này được giải quyết rồi, vấn đề lớn đặt ra ở trước mắt, là ai đọc những quyển sách này? Những cuốn sách này là Văn ngôn văn, người hiện tại xem không hiểu. Tôi lo lắng rồi, cho nên tôi nghĩ ra viện Hán học, đào tạo những nhà Hán học, họ có năng lực đọc Hán cổ. Cũng tức là tiêu chuẩn tương lai họ có thể đọc Tứ Khố Toàn Thư, có thể đọc Tứ Khố Hội Yếu, có năng lực phiên dịch những điển tịch như Tứ Khố Hội Yếu thành văn Bạch thoại, cúng dường đại chúng, sau đó lại từ văn Bạch thoại phiên dịch thành tiếng nước ngoài. Như Quần Thư Trị Yếu của chúng ta hiện nay, có bản dịch tiếng Anh, bản dịch tiếng Đức, bản dịch tiếng Pháp, hình như còn có bản dịch tiếng Tây Ban Nha, hiện tại có bản dịch tiếng Nhật. Tốt nhất là dịch thành văn Bạch thoại, rồi lại dịch thành ngôn ngữ chữ viết của các quốc gia khác trên toàn thế giới, người của cả thế giới đều học Quần Thư Trị Yếu, người của cả thế giới đều học văn hóa truyền thống nước ta, văn hóa nước ta thống nhất toàn thế giới, thì thiên hạ sẽ thái bình, tai nạn sẽ được hóa giải. Chúng ta làm sự việc này.

Vì vậy học tập Hán học, Thuyết Văn Giải Tự là gốc của Hán học, tức là đầu tiên, phải học tập nhận thức văn tự nước ta. Chữ viết nước ta có như thế nào, từ nguồn gốc của chữ viết, đến sự diễn biến trong 2000 năm nay, đều cần phải biết, đều cần phải nghiêm túc học tập. Về những trí huệ, lý niệm, phương pháp, kinh nghiệm mà cổ Thánh tiên Hiền để lại, là hết sức phong phú, lấy không hết, dùng không tận, đó mới là bảo bối thật sự, tất cả kho báu trên thế gian cũng không thể sánh được, đây là điều chúng ta nên biết. Hi vọng người trẻ phát tâm, dành thời gian 10 năm để học tập chữ Hán, Hán cổ, sau đó bộ sách này sẽ biến thành bảo bối của chính quý vị, của chính gia đình quý vị, quý vị có năng lực xem đọc, quý vị có năng lực phiên dịch, có năng lực giải thích, có năng lực hoằng dương. Hiện nay văn hóa truyền thống rất cần gấp những người như vậy, vì thế chúng ta phải đem một chút tiền, không quá nhiều để làm công tác này, chiếu cố những người này, để họ yên tâm chăm chỉ học hành. Chúng ta đi mời giáo viên, nhưng giáo viên rất ít, người có nghiên cứu về Văn tự học không nhiều, rất ít, chỉ cần có hai-ba giáo viên tới dạy thì có thể truyền lại được. 志願無倦 “Chí nguyện vô quyện” (Chí nguyện không có nhàm chán).

《華嚴經》普賢大士十大願王,概括其願末之意為 “Hoa Nghiêm Kinh Phổ Hiền Đại sĩ Thập đại Nguyện vương, khái quát kỳ nguyện mạt chi ý vi” (Mười đại Nguyện vương của Đại sĩ Phổ Hiền trong Kinh Hoa Nghiêm, khái quát ý nghĩa cuối cùng của nguyện ấy là), chúng ta đều rất quen thuộc với Mười đại Nguyện vương, từ ‘lễ kính chư Phật, xưng tán Như Lai’ đến ‘phổ giai hồi hướng’, ý nghĩa cuối cùng là: 虛空界盡、眾生界盡、眾生業盡、眾生煩惱盡,我禮(乃至迴向)乃盡 “Hư không giới tận, chúng sanh giới tận, chúng sanh nghiệp tận, chúng sanh Phiền não tận, ngã lễ (nãi chí hồi hướng) nãi tận” (Hư không giới tận, chúng sanh giới tận, nghiệp chúng sanh tận, Phiền não chúng sanh tận, thì sự lễ kính (cho đến sự hồi hướng) của con mới tận).Ngã lễ’ đây là lễ kính chư Phật, ‘hồi hướng’ là hồi hướng cho chúng sanh, hồi hướng cho Pháp giới, hồi hướng cho Bồ-đề, đến chỗ này thì mới viên mãn. Tiếp theo nói: 而虛空界乃至煩惱無有盡故 “Nhi Hư không giới nãi chí Phiền não vô hữu tận cố” (Nhưng bởi Hư không giới cho đến Phiền não đều không có cùng tận), đây là thật, Hư không giới thật sự là vô tận, sự lễ kính của Bồ-tát Phổ Hiền, cho đến sự hồi hướng, cũng là không có cùng tận. 念念相續,無有間斷,身語意業,無有疲厭 “Niệm niệm tương tục, vô hữu gián đoạn, thân ngữ ý nghiệp, vô hữu bì yểm” (Niệm niệm tương tục, không có gián đoạn, nghiệp Thân Ngữ Ý, không có nhàm mỏi), hai câu nói này quan trọng. Quý vị thấy niệm niệm liên tục, niệm niệm ấy tức là tâm nguyện, chí nguyện của ngài, niệm niệm tương tục, mãi mãi tương tục. Vô lượng kiếp trước niệm niệm rộng thí Hữu tình, lợi lạc chúng sanh, đến tận kiếp đời vị lai vẫn là ‘chí nguyện vô quyện’, vẫn là niệm niệm liên tục, không có gián đoạn. Ba nghiệp Thân Ngữ Ý không có mệt mỏi nhàm chán, ‘thân’ là thân hành, ‘ngữ’ là ngôn giáo, ‘ý’ là hoằng nguyện, Thập đại Nguyện vương của Bồ-tát Phổ Hiền chính là ý. Mười nguyện ấy, đều là thực hiện trong cuộc sống, thực hiện trong công việc, thực hiện trong xử sự đối người tiếp vật ở hằng ngày, phạm vi là khắp Pháp giới Hư không giới, quá khứ vô thỉ, vị lai vô chung, là Đại nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền. Chúng ta phải học tập, không phải chúng ta học Phật thành Phật thì không có việc gì nữa, mà ngày nào thành Phật tức là ngày đó bắt đầu đại nghiệp Phổ Hiền của chúng ta. Tuy hiện tại chúng ta có Phổ Hiền nguyện, nhưng làm không được, vì sao vậy? Bởi không có đức năng, không có trí huệ.

Ngày nay chúng ta gặp được Pháp môn này, thù thắng không gì hơn, Pháp môn này là môn gì? Là Pháp môn Tịnh Độ, chư vị phải biết điều này. Pháp môn Tịnh Độ nghĩa là gì? Là một đời chắc chắn thành tựu. Có làm được chăng? Được. Dựa vào điều gì? Dựa vào 48 nguyện của A Mi Đà Phật, Pháp môn này không nhờ vào chính mình, mà nhờ vào A Mi Đà Phật, toàn tâm nương nhờ. Nương nhờ chính mình thì không thể thành tựu, bất kỳ Pháp môn nào trong 84 ngàn Pháp môn cũng không thể thành tựu. Có thể thành tựu cõi nhân thiên, tức là đời sau kiếp sau không mất thân người hoặc sanh lên cõi trời thì đã tuyệt vời, đã là rất hiếm có, [còn] thành Phật là điều không thể. Nhưng quý vị gặp được Tịnh tông, quý vị tín nguyện trì danh, thì quý vị có thể vãng sanh, vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, thì quý vị có thể thành Phật, quá dễ dàng, quá đơn giản rồi! Lão Hòa thượng Hải Hiền làm chứng minh cho chúng ta. Hình của ngài, chúng ta đã in rất nhiều tấm, Bên này, treo ở bên này, ngày ngày quý vị thấy để học tập theo ngài. Ngài chỉ là một câu A Mi Đà Phật, ngài không biết chữ, chưa từng đi học, cả đời chưa từng đọc một bộ kinh nào. Ngài cũng chưa từng lên chánh điện, ngài cũng không biết năm thời khóa trong chùa, ở chùa của người khác, người khác lên chánh điện, còn ngài đứng ở cửa chánh điện miệng niệm A Mi Đà Phật.

Chỉ là một câu A Mi Đà Phật, tín, nguyện thì là cầm được điều kiện vãng sanh, tôi thật sự tin có Thế giới Cực Lạc, thật sự tin có A Mi Đà Phật, thì có thể vãng sanh, A Mi Đà Phật sẽ đến tiếp dẫn quý vị, một niệm mười niệm khi lâm chung thì nhất định được sanh. Bình thường chúng ta niệm Phật, niệm A Mi Đà Phật, công đức niệm A Mi Đà Phật ấy, là phẩm vị của quý vị khi vãng sanh Thế giới Cực Lạc là cao hay thấp. Trên Kinh nói rất hay, sự sâu cạn của công phu niệm Phật, không phải nhiều hay ít, không liên quan nhiều hay ít, mỗi ngày niệm một tiếng Phật hiệu cũng được, không ở bao nhiêu, mà ở công phu. Công phu ở nơi đâu? Công phu ở buông xuống. Có phải là quý vị có thể buông xuống thế giới này không? Vì thế buông xuống tất cả thân tâm thế giới, đó là công phu, không còn mảy mảy lưu luyến gì đối với thế giới này, cũng không còn sân khuể, biết thế giới này là hư vọng. Ghi nhớ câu nói trong Kinh Kim Cang để làm công phu quán chiếu thường ngày của chúng ta, trong kinh nói với chúng ta: 凡所有相,皆是虛妄 “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng”, bất kể là thế gian pháp hay Phật pháp, đều bao gồm ở trong đó. Văn kinh còn nói thêm rằng: 法尚應捨,何況非法 “Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp” (Pháp còn phải xả, huống gì chẳng phải pháp), pháp ấy là Phật pháp, Phật pháp nhiều như thế, chúng ta chỉ chọn một môn, môn khác thì phải buông xuống; Kinh điển nhiều như vậy, tôi chỉ chọn Kinh Vô Lượng Thọ, còn lại thảy đều buông xuống.

一門深入,長時薰修,讀書千遍,其義自見“Nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu, độc thư thiên biến, kỳ nghĩa tự kiến”, hai câu nói này là Giới Định Huệ, tất cả đều đầy đủ. ‘Độc thư thiên biến’ là do Tổ sư Đại đức dạy, đây là Giới luật, thì chúng ta trì Giới này. Một ngàn biến ấy không đọc sai, không đọc sót mất, rất là quy củ, đây là tu định; ‘Tự kiến’ là trí huệ hiện tiền, ‘kỳ nghĩa tự kiến’, thì không cầu ở người khác. Vì thế trong sự giáo học ngày xưa, rất nhiều vị thầy cao minh dạy học trò, chỉ theo sát học trò đọc sách đọc bao nhiêu lần, giảng hay không? Không giảng. Vì sao không giảng? Bởi giảng [sẽ] chắn ngang cửa ngộ của họ, họ sẽ không khai ngộ. Cho nên không giảng, chỉ dạy họ cứ như vậy mà niệm, niệm sạch Vọng tưởng, niệm sạch tạp niệm, trong tâm không còn Vọng tưởng, không còn tạp niệm, thanh tịnh bình đẳng hiện tiền. Tâm thanh tịnh, là Thiền định của A-la-hán; Tâm bình đẳng, là Thiền định của Bồ-tát. Định lâu rồi, không chắc lúc nào cũng giác thôi, giác tức là tự kiến, tức là đã hiểu rõ, sáng tỏ hoàn toàn kinh ấy rồi. Sau khi sáng tỏ thì phải làm gì? Giảng cho thầy nghe, thầy gật đầu với quý vị, không sai, giảng được rất hay, thì quý vị tốt nghiệp rồi. Thầy ấn chứng cho quý vị, chứ không giảng giải cho quý vị. Những gì quý vị ngộ được, thầy cũng đã ngộ được, quý vị vừa nói, thì vừa khớp với thầy, không sai chút nào, vậy thì đã tốt nghiệp. Quý vị liền có thể rời khỏi Đạo tràng, đến khắp nơi gần xa để hoằng pháp lợi sanh, đi giáo hóa chúng sanh, nơi nào có duyên, thì ở nhiều ngày, không có duyên thì ở đôi ba ngày.

Phương pháp này, người phương Đông vẫn còn có người biết, nhưng không nhiều, người phương Tây thì không ai biết cả, khả năng là họ hoàn toàn không thể tiếp nhận, không thể tin tưởng. Quý vị xem bây giờ chúng ta làm thực nghiệm, 3 tới 5 năm, thật sự có một-hai người khai ngộ rồi, thì người phương Tây tin tưởng thôi, ‘vô sư tự thông’ là thật, không phải là giả. Chỉ cần quý vị thật sự hạ thủ từ trên Định Huệ, kinh giúp quý vị khai Huệ, đọc kinh Phật, chọn một bộ kinh, mỗi ngày đọc mười tiếng đồng hồ, càng đọc càng thuộc. Như Kinh Vô Lượng Thọ, mới bắt đầu đọc, đại khái phải hai tiếng mới đọc được một biến, đọc trên một năm, đại khái là một tiếng, một năm rưỡi, đại khái là bốn-năm mươi phút, nhanh nhất là nửa giờ. Nhưng như thế nào? Niệm đến nửa tiếng niệm một biến, mỗi ngày vẫn phải niệm đủ 10 tiếng, điều này quan trọng, 10 tiếng quý vị niệm 20 biến. Mới đầu niệm, thì 10 tiếng niệm 5 biến; Sau một năm, 10 tiếng niệm 10 biến; Sau một năm rưỡi, 10 tiếng 20 biến. Vì sao vậy? Bởi không đọc kinh thì quý vị sẽ nghĩ ngợi lung tung, có Vọng tưởng, có tạp niệm, Vọng tưởng tạp niệm là Phiền não. Dùng phương pháp niệm Phật, phương pháp niệm kinh, để niệm sạch Vọng tưởng, để niệm sạch tạp niệm, tâm thanh tịnh hiện tiền, đó là công phu. Công phu như thế, vãng sanh Thế giới Cực Lạc phẩm vị [sẽ] cao.

Phàm phu vãng sanh không có công phu, chúng ta ra đi đều là không có công phu, không có công phu thì sanh Phàm Thánh Đồng Cư độ. Phàm Thánh Đồng Cư độ ở nơi ấy là Tịnh độ, Phàm Thánh Đồng Cư độ ở nơi này của chúng ta là Uế độ, không như nhau, hoàn toàn khác nhau. Nếu có một chút công phu, tâm thanh tịnh đã hiện tiền, cũng tức là chúng ta nói Công phu Thành phiến, vãng sanh với Công phu Thành phiến thì không phải Đồng Cư độ, mà là Phương Tiện Hữu Dư độ, ở hai phẩm dưới, tức là Trung phẩm, hai phẩm Trung Hạ. Nếu niệm đến Sự nhất tâm Bất loạn, thì tâm bình đẳng hiện tiền, đối với tất cả vạn vật, người việc vật đều không phân biệt, không phân biệt thì đã bình đẳng, đó là định lực của Bồ-tát. Người ấy vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, là Thượng bối Vãng sanh của Phương Tiện Hữu Dư độ, phẩm vị cao rồi. Nếu niệm tới khai ngộ, khai ngộ tức là Giác, Thanh Tịnh, Bình Đẳng, Giác, Giác là Lý nhất tâm Bất loạn, thì sanh Thật Báo Trang Nghiêm độ. Vì thế sự cạn sâu của công phu niệm Phật, là khi vãng sanh Thế giới Cực Lạc: quý vị là phẩm vị nào, nơi đó cũng là trường học, cõi Đồng Cư là Tiểu học, cõi Phương Tiện là Trung học, cõi Thật Báo là Đại học, Đẳng giác là lớp Tiến sĩ. Cũng là từng tầng từng cấp một, cho nên quý vị đến Thế giới Cực Lạc là xen lớp, quý vị dự vào lớp nào, dự vào cấp bậc nào, đó là sự cạn hay sâu của công phu niệm Phật, không có nói bao nhiêu.

Do đó có thể thấy, mấu chốt quan trọng nhất là muốn đi, tức là được Ngài tuyển nhận, khi Ngài tuyển nhận quý vị, là tin thật, nguyện thật, tôi thật sự muốn đến Thế giới Cực Lạc, tôi không muốn ở lại thế giới này nữa, nguyện tâm như vậy thì đạt được: bên kia A Mi Đà Phật ghi nhận rồi. Đây là điều kiện đầu tiên, công phu niệm Phật cạn sâu là thứ hai. Trước cần phải ghi nhận, rồi sau mới bàn công phu, công phu còn cạn cũng không sợ, dù là vãng sanh Hạ hạ phẩm Phàm Thánh Đồng Cư độ cũng đáng giá rồi. Vì sao? Bởi tuy Thế giới Cực Lạc có phẩm vị, nhưng đãi ngộ là ngang nhau, điều này là khác với tất cả cõi nước chư Phật, đều làm A-duy-Việt-trí Bồ-tát, đó là đãi ngộ thế nào? Là đãi ngộ của Pháp thân Bồ-tát. Cho nên quý vị đến Thế giới Cực Lạc, vãng sanh Hạ hạ phẩm cũng là như vậy, trí huệ, thần thông, đạo lực là bình đẳng với bậc Pháp thân Đại sĩ. Không phải do quý vị tu, mà là do A Mi Đà Phật gia trì quý vị, cho nên ân đức của đức Mi Đà quá lớn rồi! Những người ấy có sự đãi ngộ cao như vậy, có trí huệ, thần thông, đạo lực cao như thế, thảy đều là Phật lực gia trì, nếu không được Phật lực gia trì, vậy thì không thể. Nếu quý vị làm rõ ràng, làm sáng tỏ những điều này, thì quý vị mới hiểu được Tịnh tông thù thắng biết mấy, gặp được Tịnh tông khó biết bao! Sau khi gặp được, thật sự tin tưởng, thì Thế giới Tây Phương Cực Lạc tuyển chọn rồi, thật sự niệm vài tiếng Phật, thì đến dự lớp học ở bên đó rồi. Nhất định không được từ bỏ, nếu từ bỏ, thì thật đáng tiếc! Vậy nên phải phát nguyện, phải lập chí. Không cầu gì ở thế gian này, thật sự là không tranh gì với người, không cầu gì ở đời, mỗi ngày có thể ăn no, có thể mặc ấm, có một căn nhà nhỏ có thể che gió che mưa, là đủ rồi, không mong gì nữa. Điều nên cầu là mong vãng sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc, mong sớm ngày thấy A Mi Đà Phật.

Vãng sanh tới Thế giới Cực Lạc, hoa nở thấy Phật, bất luận phẩm vị nào, đều là đãi ngộ bình đẳng. Tiến vào giảng đường lớn của A Mi Đà Phật, đức Mi Đà giảng kinh thuyết pháp ở nơi ấy, giảng đường ấy có chỗ ngồi của quý vị, đã an bài sẵn cho quý vị, quý vị ngồi vào chỗ ngồi để nghe kinh. Nghe đến khi nào thì rời khỏi? Nghe đến quý vị Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, quý vị mới sẽ rời khỏi; Nếu chưa triệt ngộ, thì quý vị sẽ không rời khỏi. Nói cách khác, bước vào giảng đường là phàm phu, rời khỏi giảng đường là Phật, quý vị thành Phật rồi, chưa thành Phật thì quý vị sẽ không lìa khỏi giảng đường. Thời gian bao lâu? Bất định, căn tánh của mỗi người khác nhau, có người thời gian dài, có người thời gian rất ngắn. Thật hiếm có!

Đến Thế giới Cực Lạc, thân thể không phải là nhục thân, nhục thân là thân sanh diệt, vẫn phải bổ sung dinh dưỡng, ngày ngày ăn cơm, vẫn phải nghỉ ngơi, phải ngủ nghỉ; Ở Thế giới Cực Lạc không cần, là thân Kim cang Bất hoại, thân thể là thân Tử ma Chân kim sắc, thân Pháp Tánh. Thân này của chúng ta là Pháp tướng, là Tướng phần của A-lại-da thức, có sanh có diệt. Người đến Thế giới Cực Lạc, thảy đều chuyển Thức thành Trí, nói cách khác, chuyển bát Thức thành tứ Trí, vì vậy thân của họ là thân Pháp Tánh, thân Pháp Tánh không có sanh diệt. Cho nên quý vị là vô lượng thọ, A Mi Đà Phật là vô lượng thọ, mỗi người vãng sanh đều là vô lượng thọ, quý vị nói khó được biết bao! Thân thể ấy không cần ăn cơm, không cần uống nước, không cần ngủ nghỉ, mà tinh thần luôn luôn đầy đủ, thể lực dồi dào. Trong giảng đường, đợi đến sau khi Đại triệt Đại ngộ: thì lễ Phật rồi rời đi, rời đi để làm gì? Để đến cúng dường chư Phật Như Lai ở mười phương thế giới, để tu phước, nghe kinh văn pháp là tu huệ, cúng dường là tu phước, phước huệ song tu, thời gian rất ngắn thì tu viên mãn rồi.

Trí huệ trong Tự Tánh tự nhiên hiện tiền, chính là viên mãn, quý vị sẽ có năng lực giúp chư Phật giáo hóa chúng sanh trong cõi nước của tất cả chư Phật ở khắp Pháp giới Hư không giới, dùng [thân] Thanh văn, Bồ-tát, không nhất định thân phận nào, như 32 Ứng thân của Bồ-tát Quán Thế Âm, cần dùng thân nào độ được, thì quý vị hiện thân thế ấy. Cần nên thuyết pháp gì cho chúng sanh, quý vị vừa nhìn thì hiểu được họ là kiểu căn tánh nào, quý vị liền thuyết pháp cho họ, chẳng có gì không xứng cơ, chẳng có gì nghe không hiểu, chẳng có gì mà không hoan hỉ, đắc đại tự tại. Ngay trong đời này của chúng ta, 3 đến 5 năm thì có thể đạt được, vậy vì sao không làm? Nếu như nói không làm điều này, thì thật là bị thiệt thòi lớn, quá đáng tiếc rồi! Hi vọng đồng tu đầu óc phải sáng suốt, cơ hội này trăm ngàn vạn kiếp khó mà tao ngộ. Cư sĩ Bành Tế Thanh thời nhà Thanh trước đây từng nói, chúng sanh may mắn nghe được Pháp môn này, đó là một ngày hiếm có khó gặp từ vô lượng kiếp tới nay, họ làm sao có thể gặp được? Sao mà vận may như thế? Bao nhiêu người trong chúng ta sau khi gặp được nhưng không biết trân quý, trước mặt mà bỏ qua, thật là đáng tiếc!

Thời trẻ tôi cầu học ở Đài Trung, thầy Lý nói với tôi, Liên xã Đài Trung là do thầy thành lập, Liên hữu khi đó có hơn 20 vạn người, tôi đã sống ở Đài Trung 10 năm, khi tôi rời khỏi, số Liên hữu tăng lên tới 50 vạn người. Thầy nói, liên hữu đồng học của chính chúng ta, trong một vạn người đại khái chỉ có 3 đến 5 người có thể vãng sanh. 3 hay 5 phần vạn, cũng không ít rồi, 50 vạn người, nếu như nói 5 người, thì có 250 người vãng sanh, thật sự rất khó được, vãng sanh thì sẽ thành Phật, độ chúng sanh thành Phật đạo. Không thể vãng sanh, tức là không có nắm chắc cơ hội này, có lưu luyến đối với thế gian này, buông chưa được, vậy thì khổ rồi, chúng ta không thể làm việc dại khờ này, điều này rất quan trọng. Trừ khi A Mi Đà Phật có giao sứ mệnh cho quý vị, giống như lão Hòa thượng Hải Hiền, ấy là có sứ mệnh, nếu A Mi Đà Phật không phải là căn dặn ngài trụ lâu ở thế gian để biểu pháp, làm tấm gương tốt cho mọi người, thì ngài sớm đã vãng sanh rồi. Chúng ta tin rằng, việc nắm chắc vãng sanh mà ngài có được, thì lúc 25 tuổi đã có thể đạt được. Trụ ở thế gian này nhiều năm như vậy, là do A Mi Đà Phật dặn dò ngài, ngài tu được rất tốt, tu được không tệ, một mạch cứ vậy mà duy trì, làm tấm gương tốt cho Đệ tử Phật, làm tấm gương tốt cho đồng học Tịnh tông, cho người niệm Phật chúng ta, ngài vãng sanh như thế nào? Sao mà tự tại như thế?

Cho nên hôm nay chúng ta tu Tịnh Độ, nắm chắc ba loại Kinh sách: Thứ nhất là Kinh Vô Lượng Thọ, đây là pháp căn bản. Thứ hai là Tịnh Tu Tiệp Yếu Báo Ân Đàm của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, quyển sách này, phía sau có đĩa CD, vô cùng quan trọng. Nội dung quyển sách này rất đơn giản, rất súc tích nhưng đều đã giới thiệu ra toàn bộ Phật pháp, Hiển giáo Mật giáo, Đại thừa Tiểu thừa, Tông môn Giáo hạ đều nói ra tất cả, giống như một quyển Phật học thường thức, quý vị không ở ngoài nghề nữa, quý vị có thể hiểu được toàn bộ. Loại thứ ba là Lai Phật Tam Thánh Vĩnh Tư Tập, quyển này, [là kể về] lão Hòa thượng Hải Hiền, đã chỉnh lý thành một tập sách, đây là bản được in cuối cùng, trong đó có CD. Tôi giới thiệu ba bộ này cho đồng học, thường xuyên đọc, thường xuyên xem, thường xuyên niệm ba bộ này, thì sẽ nắm chắc được vãng sanh. Chúng ta thật sự phải làm được, niệm niệm tương tục không có gián đoạn, nghiệp Thân Ngữ Ý không có nhàm mỏi, đó chính là ý nghĩa của “Chí nguyện vô quyện” thật sự. Hôm nay chúng ta học tập đến đây thôi, thời gian hết rồi.

(Hết tập 228)

Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.

Nam Mô A Mi Đà Phật.