Responsive Menu
Add more content here...

Luận Câu Xá – Phẩm 1 – Buổi 23

Giảng Ký A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận (A Tỳ Đàm – Vi Diệu Pháp – Duy Thức Pháp Tướng) – Tạo Luận: Tôn giả Thế Thân – Dịch và Chú Thích: Tam tạng Pháp sư Huyền Trang – Bài 23: Phẩm 1 – Phân Biệt Giới – Buổi 23.

Giảng giải: Thầy Thích Thiện Trang

Giảng ngày: 25.12.2024

Phát trực tiếp trên Kênh YouTube Thích Thiện Trang

https://www.youtube.com/watch?v=Cl_Edc_on6E

mạng xã hội Facebook, Fanpage Thích Thiện Trang:

https://www.facebook.com/suthaythichthientrang

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

 Nam Mô A Mi Đà Phật!

 Kính chào toàn thể quý vị đồng tu! Chúng ta đang theo dõi thời khóa trực tiếp vào thứ Tư hàng tuần, với chuyên đề là A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận, nói ngắn gọn là Luận Câu Xá. Bộ luận này là bộ luận thiên về giáo pháp tu chứng. Nói về lộ trình tu chứng thì bộ Luận Câu Xá này khá đầy đủ, tương đương với một bộ bên Nam truyền là bộ Vi Diệu Pháp (A Tỳ Đàm). Thiện Trang đã chia sẻ hôm nay là bài 23, chúng ta giới thiệu một số vấn đề trong kinh tạng, Kinh Nikaya, Kinh A Hàm, cũng như trong A Tỳ Đàm của bên Nam truyền (Vi Diệu Pháp là của Nam truyền) và cả phần Luận Câu Xá này, để chúng ta có một kiến thức tổng quan, học đến đâu thì tu được tới đó. Cho nên Thiện Trang đã cố gắng đưa rất nhiều kiến thức, sắp xếp một trình tự khác, không giống với giáo trình Luận Câu Xá.

Nếu như quý vị có duyên thì quý vị có thể tìm bộ Luận Câu Xá, ví dụ như Thiện Trang đang có bộ Luận Câu Xá của ngài Tuệ Sỹ. Rất tiếc bộ này Thiện Trang tìm trên mạng không thấy, tức là chỉ có bán sách, chứ không thấy có file, cho nên hơi khó cho quý vị. Thực ra coi quyển này, nếu quý vị không có trình độ, thì quý vị coi cũng không hiểu mấy. Tại vì thuật ngữ của ngành Duy Thức cũng tương đối khó, nếu mình không có kiến thức căn bản thì mình coi cũng mơ mơ màng màng thôi. Cả bên A Tỳ Đàm cũng vậy, nếu không có người giảng, mình đọc thì đọc vậy thôi.

Thiện Trang có vào một trang web Vi Diệu Pháp, mọi người chia sẻ rất nhiều tài liệu, hầu như không thiếu một điều gì. Thiện Trang thấy rõ ràng là mọi người chia sẻ tất cả lên đó thôi, chứ còn để áp dụng vào pháp hành, pháp tu, thì khó. Có lẽ là kiến thức thì có, nhưng để hiểu sâu và thực hành thì khó. Dù sao chúng ta cũng rất may mắn vì chúng ta học có thực hành.

Hôm nay Thiện Trang xin cung cấp một phần đầu tiên, đó là bổ sung nền tảng về kinh tạng và những kiến thức căn bản về pháp hành.

Sử Dụng Tài Sản Như Thế Nào?

Tôi nghe như vầy: Một thời, đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ Đà, nước Xá Vệ. Bấy giờ, có một Thiên tử tướng mạo tuyệt vời, vào lúc cuối đêm, đến chỗ đức Phật, đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên, từ thân tỏa ánh sáng chiếu khắp vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ Đà. Thiên tử kia nói kệ hỏi đức Phật:

Điều đầu tiên vốn quen thuộc, là trong kinh Phật lúc nào cũng giới thiệu đức Phật ở nơi đâu, lúc đó có ai tới, v.v… Đây là một vị chư thiên (cõi Trời). Thông thường trong kinh hay nói, vào ban đêm chư thiên hay đến thăm đức Phật. Đây là một vị chư thiên, một vị Thiên tử tức là một người cõi Trời. Cõi Trời có Thiên tử và Thiên nữ. Thiên nữ là người nữ ở cõi Trời, trời Dục giới thì có người nữ, còn từ trời Phạm Thiên (Sơ thiền) trở lên thì toàn là người nam thôi. Ở đây không nói vị Thiên [tử] này ở trời nào, hỏi đức Phật như thế này:

Người tạo tác thế nào,

Trí tuệ để cầu tài;

Cùng giữ gìn tài sản,

Hoặc hơn, hoặc lại kém?

Vị Thiên tử này muốn hỏi vấn đề về tài sản, #tạo tác là làm việc như thế nào để có trí tuệ để cầu tài sản, cùng giữ gìn tài sản hoặc hơn hoặc lại kém; #hơn là tăng thêm; [#kém là] bị suy sút đi. Đây là một kiến thức pháp hành căn bản cho tất cả những người tu hành chúng ta.

Bấy giờ, đức Thế Tôn nói kệ đáp:

Bắt đầu học nghề khéo,

Tìm cách gom tài vật;

Được tài vật kia rồi,

Phải nên chia làm bốn.

Một phần tự thọ dụng,

Hai phần cho kinh doanh;

Phần còn lại cất dấu,

Để phòng khi thiếu thốn.

Đức Phật rất là trí tuệ đúng không quý vị? Đức Phật nói đầu tiên phải học nghề khéo đã, học [nghề] cho giỏi đã, chứ không phải nói bảo mình đi làm liền. Không! Đức Phật bảo phải đi học, bắt đầu phải đi học. Rồi tìm cách gom tài vật, cũng cho đi gom đấy chứ. Được tài vật kia rồi:tức là mình làm ăn có tiền rồi, thì phải nên chia làm bốn, tức là chia tài sản đó ra làm bốn phần. Một phần tự thọ dụng: tức là mình để sử dụng. Hai phần cho kinh doanh: #hai phần tức là một nửa (50%), là đem đầu tư cho kinh doanh. Trong bộ kinh này thì không nói rõ, nhưng trong một bộ kinh khác thì đức Phật có nói là: phần đi kinh doanh là gồm có bù vào những công cụ sản xuất như máy móc, hay dụng cụ hao mòn. Một nửa trong số tiền để kinh doanh thì đầu tư tiếp, phát triển lên. Phần cuối cùng ở đây là phần còn lại [thì] cất dấu, để phòng khi thiếu thốn.Đồng tu Tịnh Độ hình như bị trật điều này đúng không quý vị? Chúng ta học cách là xả hết, đừng có tích trữ, và thôi đừng có thọ dụng, gắng tiết kiệm, tiết [kiệm] phước, tiết [kiệm] gì đó, v.v…

Mình thấy đức Phật dạy rất là trí tuệ. Mình không học, xong mình cứ “y nhân bất y pháp” cho nên đời mình khổ. Thứ nhất là mình không có tự thọ dụng, tiết kiệm quá đáng, rồi thành ra đời khổ. Rất nhiều người làm ăn cũng khá lắm, nhưng quá tiết kiệm cho nên đời họ khổ, và những người thân của họ khổ. Và tạo ra một điều nữa là những người khác nhìn thấy mình học Phật thì họ cũng sợ mình luôn, họ không dám học Phật, học Phật kham khổ quá.

Quý vị thấy đức Phật rất trí tuệ. Như vậy nếu quý vị làm ăn được bốn phần thì quý vị hãy dùng 25% để xài (tự thọ dụng); rồi quý vị đem một nửa tài sản (tiền làm ra đó) đi đầu tư để kinh doanh tiếp, để bổ sung, sửa chữa đồ đạc, máy móc, v.v… [phần] còn lại 25% [là để] tích trữ. Nhớ nha! [Phần] còn lại cất dấu để phòng khi thiếu thốn. Điều này hồi xưa mình không học [nên] mình không biết. Chính Thiện Trang gặp khó khăn chỗ này, khi mình có việc gì cần làm thì không có tiền. Tiền đâu ra? Phải chờ thời gian! Cho nên khi đó khó khăn.

Chúng ta cố gắng học, Phật giáo của chúng ta rất trí tuệ. Thực ra chúng ta quen học theo chư Tổ Trung Hoa. Chư Tổ Trung Hoa thì bị ảnh hưởng của Đạo gia. Quý vị coi ở bên Đạo gia rất kỹ về tiết kiệm phước, ví dụ như ăn mà đổ xuống thì lượm lên. Nhưng quý vị coi trong Luật tạng, Tỳ-kheo có một giới là không được lượm đồ ăn đổ. Tại vì có một vị Trưởng giả đó cúng dường cho các vị Tỳ-kheo, có một vị Tỳ-kheo ăn rớt đồ gì đó xuống, ông lật đật lượm lên ăn. Vị Trưởng giả đó mới báo lên Phật: “Bạch đức Thế Tôn, chúng con cúng dường tài sản đâu có thiếu, rất nhiều. Các vị Tỳ-kheo là những người phải nói là có oai nghi mô phạm, mà bây giờ lượm cơm, lượm đồ ở dưới đất giống như mấy con gà”. Từ đó đức Phật mới chế giới là không được lượm những đồ ăn đổ xuống đất.

Quý vị để ý, [điều này] khác với Hòa thượng Hải Hiền. Cho nên chúng ta hãy học theo kinh Phật. Thiện Trang khuyên là quý vị hãy “y pháp bất y nhân”. Tại vì chư Tổ Trung Hoa ảnh hưởng của Đạo gia, người ta rất là khắc khổ, tu càng khổ hạnh càng tốt. Nhưng rõ ràng ở đây, so với trong bài kệ này thì chúng ta thấy đã sai rồi đúng không? Được thọ dụng ¼ (25%), cho nên quý vị được quyền thọ dụng mà. Rồi còn cất dấu ¼ nữa để phòng khi thiếu thốn. Chứ chúng ta cứ nói tin vào vận mạng. Phật nói không phải như vậy, phải có duyên, có nhiều yếu tố. Trong mạng có, nhưng [phải] có duyên, có hoàn cảnh, có này kia [thì] mới có tiền. Rồi lỡ quý vị đau ốm, quý vị có vấn đề chuyện gì v.v… mà quý vị không có tiền trả. Cho nên ngay bài đầu tiên trong học Phật là bài xài tiền, [thì mình] đã không học đúng. Hồi xưa đôi khi mình cứ y theo truyền thống thì rất nguy hiểm. Chúng ta cố gắng làm sao học theo kinh Phật, những lời đức Phật dạy rất tuyệt vời, rất trí huệ. Ở đây khi mình có vấn đề gì thì mình cũng còn có 25%.

Quý vị nghe tiếp, đoạn sau còn hay nữa:

Người kinh doanh sự nghiệp,

Làm ruộng hay buôn bán;

Chăn bò, dê thêm vốn;

Nhà cửa để kiếm lời,

Có nghĩa là đức Phật cho phép mình giàu lên: thêm vốn, nhập thêm, cất dấu. Từ đó thêm vốn kinh doanh và thêm cả tích trữ. Quý vị nhớ cứ 25% để thọ dụng, theo tài sản mình càng nhiều thì mình được thọ dụng càng nhiều. Quý vị coi trong Kinh A Hàm và Kinh Nikaya, đức Phật không có chê trách việc thọ dụng. Đức Phật đâu có chê là bà đó sao mặc đồ (y) lòe loẹt, xa hoa quá, trang điểm, anh lạc nhiều, v.v… Không có chuyện đó! Quý vị hãy coi kỹ Kinh A Hàm và Kinh Nikaya, đức Phật không nói điều đó. Đây là một điều mà chúng ta phải coi lại.

Vì Phật giáo cần truyền ở nhân gian, những người học Phật mà kham khổ quá thì quý vị khó độ chúng sanh. Họ kêu tu là khổ. Quý vị thấy những vị Cư sĩ tại gia, càng học mà thấy giàu có, xinh đẹp, hột xoàn đeo quá trời, v.v… đủ các kiểu, thì người ta càng tin là Phật pháp linh. Cho nên quý vị là Cư sĩ tại gia thì để ý nha, chúng ta không nói những người xuất gia, ở đây là nói cho người tại gia.

Tạo phòng ốc giường nằm;

Sáu nhu yếu sinh hoạt,

Phương tiện tạo mọi thứ;

An lạc sống suốt đời.

Quý vị thấy [đức Phật] cho phép quý vị: tạo phòng ốc giường nằm, sáu nhu yếu sinh hoạt, phương tiện tạo mọi thứ, an lạc sống suốt đời. Chứ đâu phải là không cho thọ dụng đâu. Cứ xây nhà, xây cửa, làm gì cũng được. Ok! Đức Phật cho hết, sáu nhu yếu của sinh hoạt là ok.

  Đức Phật dạy tiếp:

Khéo tu nghiệp như vậy,

Trí tuệ dùng cầu tài;

Của báu theo đó sanh,

Như các sông về biển.

Quý vị [nghe] đã không? Nếu tu đúng như vậy thì trí tuệ dùng cầu tài, của báu theo đó mà sanh, như các sông về biển, tức là càng ngày càng nhiều.

Tài sản nhiều như vậy,

Như ong gom vị ngọt;

Ngày đêm của tăng dần,

Như kiến dồn đống mồi.

[Đức Phật] không có bắt quý vị xả sạch như bên Đạo gia đâu. Như vậy là có quyền gom, như ong gom vị ngọt, ngày đêm của tăng dần, như kiến dồn đống mồi, càng ngày càng nhiều. Quý vị sẽ càng ngày càng giàu.

Không giao của người già,

Không gởi người biên cảnh;

Không tin người gian xảo,

Cùng những người keo kiệt.

Đức Phật dạy: là không giao của cho người già,của đem giao cho người già [thì có] nguy cơ mất. Vì người ta chết rồi [là] mất tiền. Không gởi người biên cảnh, [vì] gởi người đi xa, đi ra biên cảnh, đi ra nước ngoài, đi vượt biên mất. Rồi xong mất tiền! Quý vị thấy ngay bài pháp này, đức Phật quá trí tuệ. Không tin người gian xảo: Không tin! Đừng có chơi với mấy người gian xảo, giao cho họ là mất tiền. Cùng những người keo kiệt: trên đời này thực ra có rất nhiều người keo kiệt, keo kiệt lắm, nên không chơi luôn. Đừng có tin họ! Đức Phật dạy luôn.

Gần gũi người nên việc,

Xa lìa người hỏng việc;

Người thường làm nên việc,

Giống như lửa cháy bùng.

Tức là cố gắng gần gũi những người làm nên việc, còn mấy người làm việc tầm bậy, hư hỏng việc, thì thôi né đi, xa lìa đi. Thấy chưa! Đức Phật dạy như vậy. Đâu có phải [như] mình, nào là từ bi độ chúng sanh gì ghê quá. Những bài này rất tuyệt vời, quá hay. Người thường làm nên việc, giống như lửa cháy bùng:tức là càng ngày càng lên, càng phát triển lên.

Đức Phật tiếp tục dạy:

Bạn lành, người quý trọng,

Người cẩn mật, chân chất,

Đồng cảm như anh em,

Khéo đùm bọc lẫn nhau.

Quý vị thấy không? Ráng chơi với bạn lành, người quý trọng, người cẩn thận, người chân chất. Còn bây giờ mình thích chơi với người gian xảo, người nói cho ngọt, thế này thế kia, rồi không cẩn thận, ẩu đả nữa.Đồng cảm như anh em, phải xem người ta giống như anh em mình luôn. Khéo đùm bọc lẫn nhau, vì nói như ngôn ngữ bây giờ là “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”.

Quý vị thấy không? Rất hay! Thiện Trang nói trong Kinh A Hàm, Kinh Nikaya đức Phật dạy hết rồi. Chúng ta chỉ có lười học, chúng ta cứ y nhân, người ta dạy một hồi là đi đâu rồi, đi xa lơ xa lắc. Còn mình cứ học trong kinh, y trong kinh thôi, là bảo đảm được lợi ích rất lớn. Thiện Trang may mắn là coi hết Kinh A Hàm, Kinh Nikaya rồi. Thiện Trang bây giờ cứ nhớ tới đâu thì trích lục lại, [để] chuyển cho quý vị những bài tinh hoa. Tất nhiên không thể giới thiệu hết một lúc được, nhưng những tinh hoa thì cứ từ từ [giới thiệu]. Mình học tới đâu thì mình xài tới đó. [Mình học] bài này [thì] biết cách xài tiền rồi, biết cách dùng tài sản, và biết cách để chơi với người rồi đúng không?

Ở trong vòng quyến thuộc,

Biểu hiện như trâu chúa;

Tùy chỗ cần mọi người,

Chia của, cho ăn uống;

Tức là đối với những người quyến thuộc, thân thuộc của mình, thì hãy biểu hiện như trâu chúa. Tức là phải cung kính, trâu chúa nói chung rất là siêng năng. Tùy chỗ cần mọi người: tức là mọi người cần điều gì [thì] hãy chia của cho họ và cho ăn uống.

Khi tuổi hết mạng chung,

Sanh về trời hưởng lạc.

Đức Phật cắm cho câu cuối cùng luôn, quý vị sống như vậy thì yên tâm, sống đến cuối đời, hết mạng, thì quý vị sẽ lên cõi Trời. Vì sao? Vì [ở] nhân gian quý vị sống quá tốt rồi, tu được như vậy, thì được lên cõi Trời. Đâu cần phải khắc khổ, nào không dám ăn, không dám làm gì, v.v… Quý vị nhớ có câu chuyện ông đó không dám ăn, không dám xài, không dám cho bà con, không dám cho thân thuộc xài. Cuối cùng ổng chết, để lại tài sản quá trời quá đất. Hình như cũng trong Kinh Tạp A Hàm hay Kinh Tăng Nhất A Hàm, trong Kinh Nikaya cũng có. Sau đó rồi cuối cùng vua Ba Tư Nặc tới thâu hết, mà thâu mệt mỏi luôn, quá nhiều tài sản. Ông đó ăn uống rất kham khổ, không dám cho bà con xài, cuối cùng cũng chả có đứa con nào, nên không có ai thừa kế tài sản. Hai câu chuyện đó rõ ràng.

Hôm nay quý vị thấy [lời dạy của đức Phật] rất hay, quý vị cố gắng truyền những điều này cho các đồng tu học, chứ không sống ở đời khổ quá. Ở đời này khổ, thì đời sau khổ tiếp. Tại vì nguyên lý trong A-lại-da thức, A Tỳ Đàm nói: Sáu căn tiếp xúc với cảnh giới Sáu trần bằng tâm như ý, thì đời sau được quả như ý, là được quả an vui. Mà quý vị Sáu căn tiếp xúc với cảnh giới Sáu trần khổ quá, khắc khổ quá là bất như ý, thì đời sau quý vị sẽ tiếp tục khổ nữa. Nên nhớ như vậy! Đây là nguyên tắc.

Đức Phật dạy rất trí tuệ, chứ không phải như mình là mình chấp. Có những Kiến thủ kiến, Giới cấm thủ, giữ không đúng theo lời Phật dạy. Mình cho là mình tu ngon, thật là đáng thương! Cho nên không học kinh Phật làm sao biết, đạo lý này không ai nói, ai hay. Chỉ có Phật là đấng giác ngộ, một đấng Đạo sư tuyệt vời, thoát khỏi ba cõi, Ngài nhìn thấu vô lượng kiếp đời về trước, vô lượng kiếp đời vị lai, thấu tỏ tất cả nghiệp báo của chúng sanh, dù là nghiệp cỡ nào Ngài cũng thấu rõ, [nên] Ngài dạy thế nào thì chúng ta phải tin. Còn người thời nay dạy, đó là kiến giải của họ thôi. Nên nhớ vậy! Chúng ta hãy học theo Phật.

Lúc ấy, Thiên tử kia lại nói kệ:

Đã lâu mới được thấy

Bà-la-môn Niết-bàn;

Vượt qua mọi sợ hãi,

Vĩnh siêu ân ái đời.

Phần này ở bên Kinh Tương Ưng của Nikaya, chương này gọi là Tương Ưng Chư Thiên, nhưng đây là bên Kinh Tạp A Hàm.

Thiên tử kia nghe Phật nói xong, hoan hỷ, tùy hỷ cúi đầu lễ sát chân Phật, rồi biến mất.

(Trích từ Kinh 1197. Cầu Tài[43] – Phẩm Tương Ưng Chư Thiên – Kinh Tạp A Hàm).

Nhớ [đây là trong] kinh nha, chứ không phải Thiện Trang nói đâu quý vị. Đừng có nói [là] ông thầy Thiện Trang bịa ra nói. Không có! Đây là [từ] trong kinh hết. Quý vị thấy hay không ạ? Rất hay! Thiện Trang thấy hay rõ ràng. Sống cuộc đời tu hành phải như vậy, đời này cũng hạnh phúc an lạc, giao tiếp toàn người tốt v.v… [Phật] cũng đâu bắt quý vị phải sống kham khổ. Cuối cùng hết mạng, đời sau quý vị [được] sanh lên cõi Trời. Nếu có tu tập thì càng được giải thoát, quá hay rồi còn gì nữa!

Còn khổ hạnh kiểu tiếc phước, kiệm phước v.v… là của Đạo gia. Quý vị nhớ trong kinh đức Phật nói: Khi người có phước báo là tự nhiên của cải sanh. Tức là Châu Diêm Phù [Đề] này mai mốt tự nhiên giàu có lên, trù phú lên rất nhiều, tài sản dùng không hết. Còn khi phước báu của chúng sanh yếu, thì tự nhiên chiêu cảm chúng sanh làm nhiều việc xấu, cho nên chiêu cảm đất đai cằn cỗi, mất mùa, hạn hán, và những vàng bạc ẩn mất.

Nên nhớ như vậy, chứ không phải mình tiết kiệm, giống như bây giờ nhiều người nói tiết kiệm nước. Thật ra nếu quý vị tu tốt thì cảm được nước càng ngày càng nhiều. Còn bây giờ quý vị tiết kiệm, [nhưng] chống lại nghiệp của chúng sanh được không? Không! Chắc chắn không! Đúng không quý vị? Cho nên là phải lo tu, tu nhân để được quả, chứ không phải là làm như vậy. Cho nên có nhiều điều không có chính xác, đây là kiến thức mà mình không học Phật pháp thì mình không biết.

Đó là phần đầu tiên. Hôm nay Thiện Trang cung cấp một [điều] lạ, đó là cung cấp kiến thức đời sống. Thỉnh thoảng đổi chiêu, tất nhiên lúc nào cũng đạo giải thoát là quan trọng. Nhưng đôi khi mình cũng cung cấp những kiến thức này để cho quý vị đều cảm thấy rằng: À, thật ra đạo Phật rất tuyệt vời, dạy cả những điều đời sống, dạy cả những điều xuất thế, những điều tuyệt vời. Và chỉ có đức Phật thôi, không có ai bằng đức Thế Tôn đâu, yên tâm. Chúng ta quá may mắn chúng ta được học.

Bây giờ tất nhiên chúng ta sẽ nói đến vấn đề tu tập giải thoát. Bữa nay [mình học] phần: Tứ Thánh Đế: Khổ – Tập – Diệt – Đạo là gì? Hôm bữa giới thiệu đi giới thiệu lại, bí quyết để ra khỏi sanh tử là quý vị hãy thông giùm Tứ thánh đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Hôm nay giới thiệu [tiếp], cũng là từ một bộ kinh.

Tứ Thánh Đế: Khổ – Tập – Diệt – Đạo Là Gì?

Tôi nghe như vầy: Một thời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ Đà, nước Xá Vệ. Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Nên tu tập pháp bốn đế. Những gì là bốn? Thứ nhất là Khổ đế, mà nghĩa không thể tận, nghĩa không thể cùng, thuyết pháp vô tận. Tức là trong Tứ thánh đế, bắt đầu là Khổ đế. Đế là chân thật. Sự thật về khổ gọi là Khổ đế. Ở đây nói [về] nghĩa thì đức Phật nói không thể tận, không thể cùng, thuyết pháp vô tận. Tức là nói về mỗi điều khổ này mà nói hoài cũng không hết.

Thứ hai là Khổ tập đế, mà nghĩa không thể tận, nghĩa không thể cùng, thuyết pháp vô tận. Cũng tương tự như thế, Tập là sự tu tập, tức là nguyên nhân, mình nói đơn giản là nguyên nhân của khổ, chân lý hay là sự thật về nguyên nhân của khổ.

Thứ ba là Khổ tận đế, mà nghĩa không thể tận, nghĩa không thể cùng, thuyết pháp vô tận. Cũng tương tự như vậy, Khổ tận đế tức là sự thật khi khổ hết, #tận là tận diệt.

Thứ tư là Khổ xuất Yếu đế, mà nghĩa không thể tận, nghĩa không thể cùng, thuyết pháp vô tận. Khổ xuất Yếu đế là gì? Là sự thật, #yếu là quan trọng, để ra khỏi khổ, cho nên gọi là con đường diệt khổ, chúng ta gọi là Đạo đế. Tất nhiên có nhiều lắm, nhưng ở đây nói là xuất yếu thôi, là những điều quan trọng nhất thôi, chứ còn để nói hết thì cũng không thể nào hết được.

Thế nào là Khổ đế? Bây giờ định nghĩa thế nào Khổ đế. Bây giờ người ta định nghĩa mỗi kiểu, nhưng tất nhiên mình [định nghĩa] theo Phật. Đức Phật định nghĩa cho mình luôn.Khổ đế: là khổ bởi sanh, khổ bởi già, khổ bởi bệnh, khổ bởi chết, khổ bởi buồn lo phiền não, khổ bởi oán ghét gặp nhau, khổ bởi ân ái bị chia lìa, khổ bởi những gì cầu mà không được, nói tóm lại là khổ bởi năm Thủ uẩn. Đó gọi là sự thật về khổ.

Điều này quan trọng cho nên Thiện Trang xin phân tích một chút. Khổ đế là gì? Đức Phật định nghĩa dễ hiểu lắm. Khổ đế là khổ bởi sanh [già, bệnh, chết…].

Đầu tiên là Khổ bởi sanh: [Điều này] thì tất nhiên mỗi người phân tích mỗi kiểu. Người thì nói sanh là đứa nhỏ được sanh ra, nó khổ lắm, chui ra là đã khóc oe oe. Vì nó được sanh ra từ sản môn (tức là cơ quan sinh sản của người nữ), cho nên giống như là bị hòn núi đè ép, nó đau đớn, khổ. Đó gọi là khổ bởi sanh.

Có người giải theo nghĩa bóng, nói rằng khổ bởi sanh tức là cuộc sống khổ (chữ sanh cũng là cuộc sống). Cuộc sống khổ bởi vì sao? Vì hằng ngày chúng ta đi làm lụng, rồi ăn uống, ngủ cũng mệt, v.v… Nói chung cuộc sống bị bao nhiêu sự ràng buộc, ràng buộc càng nhiều, mất tự tại cho nên khổ. Hai cách giải này Thiện Trang đều đồng ý, và chúng ta học cả hai. Tóm lại đời là khổ. Từ khi sanh ra cũng khổ, mà sống cũng khổ.

Thứ hai là Khổ bởi già: Già thì ai cũng biết khổ rồi, già thì bắt đầu xấu, sức khỏe không đủ nữa. Hồi xưa thì khỏe lắm, nhưng bây giờ thì yếu rồi, dần dần già rồi thì người run run, tay cầm ly nước cũng run nữa. Rồi đi đứng cũng không được, ăn ngủ cũng không yên.

Quý vị có thể lên mạng [xem], hôm bữa Thiện Trang thấy có một cảnh rất là đáng thương. Có một video quay từ camera, có một người bà, hình như già già chút. [Bà] đi bình thường lắm, đi từ dưới nhà, bước lên thềm có mấy bậc thang là lên nhà thôi. Đi giữa chừng thì tự nhiên bà bị trượt chân thế nào đó, quay quay té rầm vô trong góc. Có hai đứa cháu nhỏ, thấy bà nội (bà ngoại) gì đó té nó chạy ra, nhưng bà nằm im luôn. Xong rồi nó chạy đi kêu người, chạy qua chạy lại, hai đứa nhỏ quá nên nó không biết làm sao hết. Đoạn video đó cũng khoảng bốn phút mấy. Một hồi bà cũng tỉnh rồi ngồi dậy, ngồi mà ngồi không nổi.

Quý vị thấy già là khổ. Đó là mới thấy sơ sơ đó, còn có nhiều điều khổ lắm. Trong nhà quý vị có người già là quý vị biết. Thiện Trang thì thấy có ông nội, bà nội của Thiện Trang hồi xưa đó, già lẫn rồi, đủ các kiểu khổ, cho nên là sợ già lắm, khổ bởi già. Mà ai dám chắc mình không bị khổ già. Cho nên khổ già, đó là một nỗi khổ. Chính vì nỗi khổ đó mà nhiều người kêu thôi ráng có chồng, có con để mai mốt con chăm sóc, rồi ráng có vợ để [vợ] chăm sóc, v.v… Nhưng khổ nỗi đời là vô thường, không biết chắc được ai đi trước ai. Cho nên là nhiều người tính không bằng trời tính.

Giống như hồi xưa Thiện Trang nhớ là có một người đó, Thiện Trang xin phép không nói tên. Thiện Trang biết rõ ràng, là khi [họ] có được hai người con trai lớn rồi thì kêu đi triệt sản đi, vì đủ [con] rồi. Khi triệt sản xong, mấy năm sau thì hai thằng con trai chết đuối. Vậy là cuối cùng cũng khổ, mà già rồi. Lúc đó hai đứa con trai hình như là mười mấy tuổi đó, hai đứa chết đuối luôn, thế là không có con. Cho nên gọi là ‘người tính không bằng trời tính’. Đó là nói theo kiểu nhân gian. Mình nói theo đúng nghĩa là mình không có phước, mà có nghiệp.

Mà thật ra quý vị nếu mà tin sâu nhân quả, thì quý vị không có lo chuyện đó lắm. Tại vì khi mình tu mà có phước báo, mình có thế nào thì già mình sẽ không bị già kiểu khổ đau, dù không có người chăm sóc [nhưng] mình cũng khỏe. Còn nếu mà mình không có phước báo, thì khi già cho dù đám con cháu đông đầy mà chúng cũng không chăm mình đâu, nên nhớ vậy. Còn nếu mình có phước báo, mình tu tập tốt, thì không đến nỗi nào, mình gieo nhân nào được quả đó mà. Mình sẽ có một sức khỏe, nguyện cầu [khỏe mạnh] đến lúc ra đi.

Thiện Trang nguyện vậy đó. Thiện Trang kêu: lúc nào mình già yếu quá mà phải cần đến người ta chăm sóc thì thôi, cho con đi cho rồi. Con không [muốn] ở cõi đời này để báo hại bất cứ một ai. Chỉ mong vậy thôi! Cố gắng làm sao ra đi tốt đẹp. Sẵn sàng bỏ, không cần đâu! Thà sống không thọ mà khỏe mạnh, còn hơn sống thọ mà yếu đuối. Đó là phương châm của Thiện Trang.

Thứ ba là Khổ bởi bệnh: Điều này thì nhiều người biết rồi. Lúc nào bệnh mà chẳng khổ đúng không quý vị? Đủ các bệnh, bệnh nhẹ cho đến bệnh nặng. Mỗi trúng gió thôi là đã mệt đờ đờ rồi, còn các nỗi khổ khác nữa, thì khỏi nói luôn. Cho nên là ở đây [nói về] bệnh, thì quý vị cố gắng giữ gìn, ăn uống [để có] sức khỏe.

Nếu quý vị để ý từ khi Thiện Trang chuyển địa điểm, chuyển qua nơi này thì quý vị thấy sức khỏe Thiện Trang tốt hơn xưa. Có lẽ một phần là về khí hậu đỡ hơn, thứ hai có lẽ là do tâm mình cũng dễ hơn, thứ ba là do hoàn cảnh tốt hơn, thứ tư nữa là do ăn uống.

Hồi xưa Thiện Trang cũng không biết, Thiện Trang cũng ăn uống rất là khắc khổ, và không có chú trọng ăn lắm. Sau này, sau khi coi trong Kinh A Hàm, Kinh Nikaya thì thấy mình đã sai lầm, đức Phật không có dạy như vậy. Đức Phật dạy là phải ăn uống cho được bình thường. Nói chung là phải khéo biết chú trọng ăn uống để có sức khỏe. Tại vì không phải điều nào mình cũng đổ cho nghiệp. Cho nên rất nhiều người sai lầm kêu: “Tôi có sức khỏe tốt, vì nghiệp tôi tốt”. Chẳng qua là quý vị có phước báo. Phước báu đang có, nhưng quý vị nên nhớ duyên thay đổi thì vẫn ảnh hưởng. Giống như cái cây là nhân, nhưng duyên không tốt thì cuối cùng cái cây không có trổ quả được đâu.

Cho nên có nhiều nguyên nhân, để [có sức khỏe] tốt thì ăn uống là một trong những nguyên nhân. Nhiều người tu cực đoan, ăn uống quá khổ, ăn uống thiếu chất rồi cuối cùng bị bệnh. Rồi ăn uống không cân bằng về âm dương, v.v…

Thật ra Thiện Trang cũng chẳng ăn uống gì sang hết đâu, ăn uống bình thường thôi, nhưng mình biết cách ăn hơn. Ăn không cần ăn nhiều mà ăn đủ, hồi bữa Thiện Trang nói rồi. Ví dụ như hồi xưa mình chỉ lo ăn cơm không, ăn cơm nhiều quá còn đồ ăn ít. Thực tế mình ăn cơm nhiều không giúp [đủ dinh dưỡng], chỉ là no bụng thôi. Quý vị chỉ cần ăn theo công thức, ví dụ như bây giờ người ta đưa ra công thức là 25% rau, trái cây, rồi 25% là ăn các loại tinh bột, còn 50% là các loại đạm, ví dụ như chúng ta có thể ăn từ đậu nành, đậu hũ, v.v… cộng lại là 100%.

Còn chúng ta ăn theo kiểu người Việt là 90% là cơm, còn chút xíu đồ ăn nữa thôi. Cho nên quý vị ăn nhiều cũng không mập được đâu, mà thiếu dinh dưỡng. Cho nên người Việt Nam nhỏ, còn người phương Tây quý vị thấy không, họ ăn chế độ dinh dưỡng khác. Người phương Tây họ ăn khoai tây, phô mai các loại v.v… ăn đủ các loại cho nên là người họ to khỏe. Đó là do ăn uống. Người Việt Nam nào mà qua sống nước ngoài một thời gian, họ ăn theo chế độ của người phương Tây thì người đó cũng [mập] lên.

Bây giờ Thiện Trang bỏ luôn, không ăn buổi chiều, cũng không uống các loại nước khác mà chỉ uống nước trắng thôi. Do như vậy mới ốm, chứ thật ra Thiện Trang mà ăn uống đàng hoàng thì chắc cũng mập thôi, tại vì [ăn kiểu] của phương Tây mà. Nếu ai gặp Thiện Trang mà quan sát kỹ người Thiện Trang, thì xương chân tay của Thiện Trang cũng to lắm chứ không có nhỏ. Nhưng tại vì người ốm là do ăn thiếu dinh dưỡng, suy dinh dưỡng từ nhỏ rồi. Còn bây giờ già rồi ăn không được nữa, với lại mình tu [nên] ít ăn quá. Chứ nếu cho Thiện Trang ăn đầy đủ suốt ngày, nào là cà phê, trà sữa gì đó, thì bảo đảm mấy ngày là lên cân liền, bảo đảm luôn.

Tại vì Thiện Trang nhớ hồi xưa, quý vị coi có tấm hình hồi Thiện Trang đi an cư kiết hạ ba tháng, hồi xưa lâu lắm rồi, hình như 2016 thì phải, ở một trường hạ. Thiện Trang cũng nhịn ăn chiều, không ăn uống gì vào buổi chiều, nhưng buổi sáng là cũng có đầy đủ. Các cô Phật tử già già đó, lên chùa cúng dường, nào là: “Thầy ơi, thầy có uống nước gì không?” Nước này nước kia, rồi trà tùm lum, là mập lên liền. Hồi đó được 49kg, là mập nhất trong thời đi xuất gia. Nhưng được 3 tháng đó thôi, hết 3 tháng về thì không được như vậy nữa.

Cho nên do là mình không có ăn uống thôi, chứ không phải là mình có thể trạng đó. Nên đó cũng là một nguyên nhân. Rồi người Thiện Trang do ăn uống bao nhiêu năm, hồi xưa cứ uống trà để chống buồn ngủ khi đi học, riết rồi người bị âm. Sau này phát hiện mình âm quá thì dương hóa lên. Giống như bây giờ, quý vị biết là Thiện Trang uống kiểu này là nóng lắm, mỗi ngày là phải ba ly nước, nấu nước sôi xong rồi xắt lát gừng bỏ vô đó, ngâm cho nguội rồi rót uống. [Vậy] là nóng lắm, người đáng lẽ phải nổi mụn nổi đủ các kiểu, nhưng [Thiện Trang] chỉ đủ cân bằng lại âm dương thôi, tức là người Thiện Trang quá âm.

Và từ đó trở đi quý vị biết sao không? Sức khỏe bây giờ ok, hồi xưa sợ mưa, sợ gió v.v… bây giờ đi mưa gió không sao hết. Bây giờ đi ra ngoài mưa gió lạnh cỡ nào cũng chịu đựng được hết, và lâu rồi không bị trúng gió. Hồi xưa sợ thần gió, chứ bây giờ hết sợ rồi. Đó là Thiện Trang chỉ bí quyết cho những người nào bị âm quá. Tại vì mình là người ăn chay, ăn toàn đồ hàn, rồi [cơ thể bị] âm. Đấy, quý vị nên thay đổi đi là quý vị sẽ khỏe hơn.

Cho nên Phật pháp là khoa học, khoa học về đời sống, khoa học về ăn uống, khoa học về bệnh tật, khoa học về tâm linh, khoa học về tâm sinh lý, tất cả đều là khoa học. Mà mình không biết học vào Kinh Nikaya, Kinh A Hàm, mình cứ chạy theo kinh Đại thừa ở trên cao, nói cho cảnh giới Bồ-tát. Bồ-tát thì khỏi cần ăn uống gì cũng được, nhưng mình không phải, mình là phàm phu. Quý vị coi trong Kinh A Hàm, Kinh Nikaya đức Phật còn bị bệnh, đức Phật còn phải chữa bệnh. Rồi các vị Tỳ-kheo như ngài Xá Lợi Phất v.v… cũng bị bệnh hết. Cho nên là các ngài cũng phải chữa bệnh, huống hồ chi mình.

Cho nên đừng có chấp trước, đừng nghĩ bệnh rồi thôi, số mạng chưa hết thì chắc chắn sẽ không chết, số mạng hết rồi sẽ chết. Cách nói như vậy đúng không? Không đúng! Thiện Trang đã dẫn trong bộ giảng nào đó, là có câu chuyện vị Tỳ-kheo đó lo tu tập quá, ăn ít quá cuối cùng chết, số mạng chưa hết mà chết. Trong kinh đức Phật nói có những trường hợp số mạng chưa hết mà chết, đó là có trường hợp bệnh mà không được chữa cho nên chết. Số mạng họ chưa hết, nhưng do bệnh mà không được chữa nên chết. Nên nhớ vậy, đừng có Tà kiến nha, thật sự rất nguy hiểm. Từ từ rồi Thiện Trang sẽ dẫn ra những điều đó. Tại vì nghe qua mới biết, nhớ vậy thôi chứ còn lúc nào đó dẫn [cụ thể]. Giống như hôm nay [Thiện Trang] đã dẫn cho quý vị câu chuyện về xài tài sản, là quý vị thấy chóng mặt rồi đúng không? [Từ đó giờ] cứ tưởng mình xài đúng. Nhưng không! Đức Phật dạy hay lắm. Như vậy đó là khổ bởi bệnh.

[Thứ tư] là Khổ bởi chết: Chết thì tất nhiên trong Kinh Vô Lượng Thọ nói hôi thối bất tịnh, chẳng có gì vui, đau đớn. Hoặc là trong kinh, trong chỗ nào đó nói là giống như con rùa sống bị lột mai, đủ các khổ, khổ của chết. Tất nhiên nếu quý vị có phước báu thì cũng không đến nỗi khổ cỡ đó.

Tiếp theo là Khổ bởi buồn lo phiền não: Điều này thì ai cũng biết rồi, trong đời thì mấy ai không có buồn lo phiền não.

[Thứ năm] là Khổ bởi oán ghét gặp nhau: Ở trong gia đình nhiều khi vợ chồng là oan gia, gặp nhau là cứ suốt ngày cãi vã. Thiện Trang thấy không phải người không biết tu là không có nạn này, mà người biết tu cũng vậy. Thiện Trang nhớ hồi xưa Thiện Trang có quen hai ông bà già, họ lấy nhau từ trẻ, mà hai người đều là những người Phật tử thuần thành, tu từ trẻ, Phật pháp thâm sâu. Một người tu Thiền, một người tu Tịnh Độ. Vậy mà đến già rồi vẫn không bao giờ nhường nhau được lời nói. Cho nên ông đó nói: “Bí quyết của tôi đó là tôi rút kinh nghiệm, tôi muốn làm việc đó theo hướng A thì tôi phải nói B, để bả bác lại. Thế nào bả cũng bác lại, bả nói A là đúng ý của tôi”. Có nghĩa là ổng cứ đưa ra bất cứ trường hợp nào thì bả cũng phải nói trường hợp ngược lại. Cho nên ổng kêu: “Sau này tôi rút kinh nghiệm, tôi cứ muốn theo hướng A thì tôi phải nói B, để bả bẻ lại là được”.

Rồi bả cũng vậy, hai người phải như vậy, tức là khắc khẩu nhau. Vậy mà làm vợ chồng với nhau mấy chục nhau. Quý vị thấy không? [Hai người đó là] học Phật pháp, tinh tấn tu hành. Học Phật pháp mà còn như vậy. Tức là có một nạn gọi là oán ghét mà gặp nhau, đó là Oán tắng Hội khổ. Cho nên là điều đó đương nhiên, mà mình gặp nhiều [trường hợp] trong đời. Trừ khi quý vị sống một mình thôi, chứ còn nếu quý vị sống với người khác là thường bị điều này. Đi làm công ty cũng vậy, nhiều người đi làm cơ quan cũng có những người ghét mà mình gặp hoài. Rồi ở nhà, trong nhà là khổ nhất, hình như chồng vợ [rơi vào trường hợp này] nhiều. Thông thường là vậy, khổ lắm! Cho nên đó là nỗi khổ oán ghét mà gặp nhau.

Rồi [thứ bảy] là Khổ bởi ân ái bị chia lìa: Đây chính là Ái biệt Ly khổ. Điều này thì rõ ràng, yêu nhau, thương nhau nhưng bị chia lìa. Ở đây nói yêu nhau, thương nhau theo hai phương diện. Một là phương diện tình cảm gia đình: cha khóc con, con khóc cha. Trong Kinh Vô Lượng Thọ nói huynh đệ v.v… khóc thương lẫn nhau. Còn nếu nói yêu nhau mà chia lìa, thì ở đời [nói] tình chỉ đẹp khi còn dang dở, điều này rất nhiều. Đó là bình thường. Cho nên đó là khổ bởi ân ái bị chia lìa. Điều này nhiều lắm, quý vị chắc đủ kinh nghiệm rồi, khỏi cần phải nói.

[Thứ tám]là Khổ bởi những gì cầu mà không được: Đây là Cầu bất Đắc khổ, cầu không được cho nên khổ. Điều này thì nhiều nữa. Ai cũng mong cầu nhiều, đặc biệt là lứa trẻ, mộng mơ nào là cầu lên địa vị tột đỉnh nhân gian. Nhưng càng lớn giấc mơ đó càng nhạt nhòa, và thậm chí tan theo mây khói, thậm chí chỉ mong ước một cuộc sống bình thường thôi. [Mà cuộc sống] bình thường như ai cũng không có nữa, cho nên cầu không được, nên cuối cùng mình đâu có cầu. Hồi nhỏ mình kêu: mai mốt mình sẽ lên địa vị này địa vị kia.

Hồi đi dạy Thiện Trang biết, Thiện Trang hỏi những người học trò, đặc biệt những bạn học tàm tạm, kha khá, học giỏi… là ước mơ tương lai của tụi em làm gì? Tụi nó nói là tương lai em sẽ làm giám đốc công ty, em sẽ làm chủ tịch tập đoàn này kia, em sẽ xây nhà mặt phố Mỹ Hưng gì đó v.v.. đủ các kiểu. Nhưng quý vị biết không? Theo năm tháng, khi học lớp 10 hỏi thì nó nói vậy, [nhưng] tới lớp 12 hỏi thì [nó] kêu chắc bây giờ giảm bớt đi, chứ không làm được [đến] đó thầy ơi, bây giờ thi Đại học nhắm chắc không đậu, sống bình bình là được rồi.

Bắt đầu vài năm sau học xong rồi Thiện Trang hỏi: “Bây giờ thì sao?” [Có đứa nói]: “Bây giờ mong ước được sống một cuộc đời bình thường”, thậm chí có đứa nói: “Mong sống bằng thầy là được rồi”. Có nghĩa là ước mơ [mong] cầu, hồi xưa mình đặt ra, mình mong ước ghê lắm, nhưng càng ngày càng nhỏ, cầu không được ở thế gian. Muốn lắm chứ, ai cũng muốn hạnh phúc, ai cũng muốn cầu những địa vị tốt đẹp tài sản, v.v… nhưng đời mình đâu có được như vậy.

Đó là một phần phước báo trong mạng của mình và nhiều yếu tố khác nữa. Chứ không phải là [do] phước báo hết tất cả. Có những phước báo thì nằm trong vận mạng mình. Và nguyên lý ở trong A Tỳ Đàm nói: tức là phước của chúng sanh giống như vô tận, đặc biệt những người tu tập như chúng ta đó. Quý vị nói là chúng ta hết phước hả? Xin lỗi, nếu quý vị hết phước thì quý vị chỉ ở Địa ngục A Tỳ thôi, chứ quý vị làm gì ở cõi Người. Chúng ta nên nhớ chúng ta tu Ba-la-mật bao nhiêu kiếp rồi, phước chúng ta cũng nhiều lắm đó. Nhưng tại sao phước không trổ? Tại vì không có duyên, quý vị phải có điều kiện.

Giống như câu chuyện hôm bữa Thiện Trang dẫn trong Kinh Tạp A Hàm, quý vị nhớ không ạ? [Câu chuyện] Lão Nam Nữ, vợ chồng già đó. Hai người rõ ràng có phước đấy chứ, có thể họ giàu nhất thành Xá Vệ, giàu nhì thành Xá Vệ, giàu thứ ba thành Xá Vệ. Vậy mà cuối cùng đâu có được gì. Cho nên đừng đổ cho vận mạng, mà có nhiều yếu tố nữa. Và tất nhiên [phước đó] không bao giờ mất, phước đấy lại lưu chuyển đời sau còn nữa, có tu thì còn. Và do chúng ta là những người tu tập nhiều đời, thì chắc chắn còn. Kho tàng của chúng ta nhiều lắm quý vị, xài không hết đâu. Mà có điều mình không có duyên để ra thôi, phải tin những điều đó.

Nói tóm lại là khổ bởi năm Thủ uẩn, là: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Ở trong Tám khổ thì nói là Ngũ uẩn (Ngũ ấm Sí thịnh khổ): Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Năm điều này [khiến cho mình] khổ. Sắc là vật chất, vật chất không có cho nên khổ, vật chất thiếu nên khổ. Còn Thọ là những cảm nhận của mình trong đời. Lúc này đang muốn vui mà nó cho buồn, đang buồn mà chuyển thành vui, vui quá thì cũng khổ. Rồi Tưởng là suy nghĩ, lo lắng, đó là Tưởng. Rồi Hành là những khía cạnh thiện ác, hay là những suy nghĩ. Để bữa nào Thiện Trang trích ra một đoạn khác nói: Hành là những tư tưởng ở trong mình, những thiện ác ở đời, v.v.. đủ các kiểu khổ. Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, nói tóm lại đấy là những điều khổ.

Đó là sự thật về khổ. Như vậy mình biết sự thật khổ này là ngon rồi, cơ hội ra khỏi sanh tử là do điều này. Bởi vì sao? Bởi vì khi nào quý vị chán quá, là quý vị không muốn vô trong vòng sanh tử đâu. Và sự chán đó khiến quý vị tu tập đạo, thì trước sau gì quý vị cũng sẽ thoát khỏi khổ. Cho nên sau này chúng ta học ở trong Luận Câu Xá, nói là hãy nhìn trong lạc có khổ. Bao giờ nhìn trong sự vui mà thấy được khổ là thành công.

Bây giờ trong lúc vui, quý vị có nhìn thấy được khổ không? [Ví dụ] đang ăn món chè rất ngon, mà quý vị có nghĩ là sẽ khổ không? Đâu có, đang ăn ngon mà, thầy nói kỳ vậy, ăn ngon mà khổ gì. Mình nghĩ: ăn xong rồi buồn ngủ, món ngon này chỉ là giả tạm ngon. Vì bữa nay mình ăn xong rồi ngày mai không có ăn nữa, mai mốt không có ăn nữa, nên khổ.

Tức là bao giờ quý vị luôn luôn nhìn cuộc sống, nhìn thấy phương diện: “À, niềm vui này là ngắn hạn, niềm vui này không lâu dài, không bền, v.v…” Quý vị nhìn dần dần như vậy, thì tâm xuất ly sanh tử của mình mạnh. Do tâm đó thì trước sau gì quý vị cũng ra khỏi sanh tử. Còn nếu mình mê trong đó, gọi là Dục ái, Hữu ái, Vô hữu ái, thì quý vị còn ở trong đó thôi. Sắc giới hữu và Vô sắc Giới hữu, tức là mình còn ham trong cõi Dục giới, mình còn ham trong cõi Sắc giới, và còn ham trong cõi Vô sắc giới, thì chúng ta vẫn còn ở trong luân hồi thôi. Còn người ra khỏi luân hồi, là do họ đã nhìn thấy trong ba cõi là khổ, cho nên họ chỉ có con đường tu tập Thánh đạo để ra khỏi sanh tử.

Thế nào là Khổ tập đế? Tập đế: là ái tương ưng với dục, tâm thường nhiễm đắm. Đó gọi là Khổ tập đế.

Đức Phật nói luôn: Tập đế là ái tương ưng với dục, là do sự ái, hay mình nói là sự ham muốn, tương ưng với ham muốn, tâm thường nhiễm đắm trong đó nên khổ. Nguyên nhân của khổ là như vậy. Cho nên ngày nào đó mình hết ham, hết tham đắm trong đó rồi là xong. Nói vậy chứ khó lắm, [phải] Tam quả A-na-hàm mới hết tham. Một người chứng Sơ quả Tu-đà-hoàn đi nữa thì vẫn còn tham, họ chỉ bớt tham, bớt dục hơn thôi, chứ vẫn còn. Và do họ nhìn thấy một phần của khổ rồi, họ nhìn thấy [nên] cũng chán ngán, họ cũng muốn xuất ly, đến một lúc nào đó họ ngán quá thì thôi, ra khỏi sanh tử đi. Chấm dứt sanh tử đó nên tối đa chỉ bảy đời thôi. Cho nên đó là nguyên nhân khi họ nhìn thấy được rồi.

Thế nào là Khổ tận đế? Tận đế: là dục ái bị diệt tận không còn tàn dư, không tái sanh khởi. Đó gọi là Khổ tận đế.

Khi nào thì hết khổ? Chỉ cần dục ái bị diệt tận, không còn tàn dư, không tái sanh khởi nữa, thì được. Vậy bây giờ muốn diệt khổ thì hết ham đi. Nhưng nói vậy chứ chúng ta chưa nhìn thấy sự thật, nên chúng ta còn tham.

Mai mốt chúng ta học tới phẩm Hiền Thánh của bộ Luận Câu Xá này, có trích dẫn trong kinh nói: Giống như một người bị cùi (ghẻ lở), do bị ghẻ lở nên hằng ngày họ đưa tay cào cho đỡ ngứa, hơ qua lửa cho đã. Và khi nóng, đã như vậy, họ cho đó là vui. Chúng sanh, trong vòng sanh tử cũng vậy, đem niềm vui giống như người bị cùi, ghẻ lở đó, hơ trên lửa, mà họ cho là vui. Thực tế đó là một nỗi đau, nó đau chứ, tại vì do đỡ ngứa nên thấy vui, chứ thực tế bị chảy máu, đốt tay nóng như vậy, đâu có gì vui đâu. Bao giờ mình nhìn thấy được như vậy, tất cả hưởng thụ ở thế gian, niềm vui thế gian là điên đảo, là khổ, thì quý vị dứt được niềm ái dục, sự ham muốn ở trong đó, thì mình mới ra khỏi sanh tử, tức là A-la-hán. Còn bây giờ mình giảm được một chút thì mình chứng Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm.

Thế nào là Khổ xuất Yếu đế? Khổ xuất yếu: là tám phẩm đạo Hiền thánh. Nghĩa là Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh hành, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh tam-muội (Chánh tam-muội chính là Chánh định. Điều này quá quen rồi. Đây là tám Chánh đạo của Hiền Thánh, hay chúng ta gọi là Bát chánh đạo). Đó gọi là Khổ xuất Yếu đế. Là đạo lý quan trọng nhất để xuất thế, để ra khỏi khổ. Đó là quý vị phải có Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định là Chánh tam-muội. Chúng ta học từ từ, bữa [trước] Thiện Trang đã giới thiệu về Chánh kiến rồi.

Chánh kiến là biết như thật về Khổ, Khổ tập, Khổ diệt và Khổ diệt đạo. Tức là biết như thật, phải biết như thật nha! Chứ không phải nhiều người nói, giống như một Sư cô nhắn cho Thiện Trang nói: “Sư Minh Tuệ tu không đúng Chánh pháp, là do không có Chánh kiến”. Thiện Trang không thích tranh cãi làm chi, Thiện Trang chỉ nói: “Vậy cô biết Chánh kiến là gì không? Mà cô dám nói người ta không có Chánh kiến”. Thì cô nói rằng: “Chánh kiến tức là tri, tri về Khổ, tri về Tứ đế”.

Thiện Trang nói: “Vậy như thế thì không được rồi, cô về coi lại kinh đi, rồi cô hãy nói”. Tại vì sao? Không phải biết, mà là biết như thật, phải biết đúng như thật cơ. Chứ biết không thì quá dễ rồi, biết thì chúng ta cũng biết vậy. Biết như thật, phải có khái niệm biết như thật, là mình thấy đúng như bản chất của nó. Giống như nhìn trái am-la (tức là trái xoài) trong lòng bàn tay. Quý vị để trái xoài trong lòng bàn tay, quý vị nhìn rõ ràng mồn một, và thấy trái xoài như thế nào.

 Vậy một người mà có Chánh kiến, là thấy đủ Tứ Thánh đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo, giống như thấy trái xoài trong lòng bàn tay. Bây giờ mình thấy chưa? Tất nhiên là không thấy rồi, bởi vì nếu mà thấy thì đâu có đi nhắn tin nói chuyện đó nữa, ta thấy rồi, ta còn thời gian đâu mà nhắn tin. Quý vị hiểu không?

Một người mà còn thị phi nhân ngã, thì chắc chắn họ không bao giờ có Chánh kiến. Đây là Thiện Trang nói chính Thiện Trang, Thiện Trang chưa có Chánh kiến, tại vì sao? Mình vẫn thấy chưa đúng như thật, mình thấy, nhưng chưa thấy đúng như thật về Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế. Mình chỉ thấy mơ mơ màng màng, đời cũng khổ đó, bắt chước nói đời khổ, nào là Tám khổ, Ba khổ, rồi nguyên nhân của Khổ, là do ái dục, do Phiền não, 10 Kiết sử. Rồi mình nói con đường diệt khổ là Bát chánh đạo, hoặc Tứ niệm xứ, nói như thật. Hoặc mình nói mai mốt diệt khổ rồi được Niết-Bàn. Xin lỗi! Ai nói diệt khổ rồi được Niết-Bàn, đã chứng Niết-Bàn chưa? Chưa chứng mà! Làm sao biết như thật được.

Cho nên chỉ nói lý thuyết thôi, không phải đâu. Còn khi nào có Chánh kiến là người đó vào dòng Thánh rồi, chỉ có vào dòng Thánh mới có Chánh kiến thôi. Còn lại chỉ là sự biết [do] học trên lý thuyết một mớ, không xài được. Chắc tương lai xài được, vì biết lý thuyết cũng còn đỡ hơn là không biết. Có nghĩa là giống như sinh viên học Đại học ngành Y, quý vị học lý thuyết hết rồi, nhưng chưa đi thực tập, quý vị chưa được cấp bằng Bác sĩ.

Cũng vậy, chúng ta là những người chỉ học mớ lý thuyết Phật pháp bòng bong đó thôi, còn ứng dụng để đi thực tập sinh trong ngành đó thì chưa xong. Quý vị biết hầu như các ngành nào học xong rồi [nhưng] vẫn chưa được công nhận tốt nghiệp mà, quý vị phải đi thực tập xong thì người ta mới công nhận quý vị tốt nghiệp chứ.

Thiện Trang hồi xưa học Sư phạm, nếu như không có kiến tập và thực tập, thì Thiện Trang ra đi dạy rất khó khăn. Nhưng nhờ đi kiến tập một kỳ, hình như cũng hơn một tháng, rồi đi thực tập nguyên một mùa mấy tháng. Xuống trường Phổ thông, phải làm giống y như giáo viên, nào phải dẫn dắt học sinh, nào này kia, sinh hoạt, dạy dỗ, tập lên tập xuống, thầy cô hướng dẫn, v.v… ra trường mới đi dạy ngon lành được chứ. Quý vị mới học lý thuyết ra, bảo đi dạy, viết bảng, viết không xong mà nói này nói kia. Rồi phải mất mấy năm luyện xong, khoảng một đến hai năm sau mới trở thành giáo viên được. Mà ra đi dạy được chưa? Chưa! Thiện Trang nói năm đầu đi dạy cũng tùm lum, chưa được nữa, phải dạy qua mấy năm.

Khi dạy, Thiện Trang nói hầu như Thiện Trang dạy ba năm, để giáp chương trình Trung học Phổ thông môn Toán. Sau khi giáp vòng rồi, mình biết đây là trọng tâm, điều này cần dạy, điều này không cần dạy, điều này dạy bao nhiêu, xoáy vào điều này, xoáy vào điều kia. Mà mỗi khi dạy như vậy, họ đổi bộ sách mới là mệt, lại mất ba năm sau để quay lại vòng đó, mới nắm được kiến thức quan trọng trong chương trình Trung học Phổ thông. Để biết lớp 10 cần dạy điều gì, lớp 11 cần dạy điều gì, và trong lớp 10 đó, học kỳ một cần dạy điều gì là chính. Còn dạy trật trọng tâm là học sinh đau đầu thêm, mai mốt đi thi, kết quả thấp thêm thôi.

Cho nên giữa lý thuyết và thực hành thì cách xa nhau như trời cách xa đất. Chứ đừng có tưởng mình học vài ba chữ Phật pháp, nói vanh vách, nghe ghê! Không có! Phật pháp không phải như vậy đâu quý vị. Đó là Thiện Trang nói Thiện Trang, không nói người khác.

Cho nên chúng ta thật sự chưa có Chánh kiến đâu, chỉ là biết một chút mà thôi. Nhưng sự biết này trước sau gì cũng dẫn mình đến sự biết thực sự. Giống như đã tìm thấy dấu chân con thỏ, thì trước sau gì cũng đi tìm được con thỏ đó thôi, bởi vì cứ đi theo dấu chân của nó. Thôi khỏi nói con thỏ, nói quý vị để lạc con chó trên sa mạc, trên sa mạc cũng không có nhiều chó lắm, nên quý vị nhìn dấu chân đi, quý vị tìm một hồi thì cũng ra con chó đang nằm ở đâu thôi.

Người học Phật pháp như chúng ta là đang đi tìm, lần theo dấu chân của con chó trên sa mạc mà thôi. Còn khi nào quý vị tìm được con chó, đó chính là Chánh kiến, thì lúc đó chúng ta mới có hy vọng vào Thánh đạo. Chứ không phải học [một chút] rồi nói tôi có Chánh kiến. Chưa! Xin lỗi chưa đâu!

Bởi vì định nghĩa của đức Phật là ‘biết như thật’ cơ mà. [Còn] mình mới biết sơ sơ, mình không có Chánh kiến thì làm sao dám nói người không có Chánh kiến, làm sao nói người ta là tà. Cho nên chỉ nên nói là: “Theo những gì họ làm, mà giống như trong kinh nói, thì điều đó là đúng”.

Nên Thiện Trang nói: Cứ coi đi, Sư Minh Tuệ làm đúng theo Kinh A Hàm và Kinh Nikaya đó, cứ thế mà coi. Chứ còn nghe người này nói, nghe người kia nói, thì không bàn. Thiện Trang nói thôi không có tranh cãi, thích coi thì coi, còn không thích coi thì thôi, không sao. Thiện Trang cũng không tranh cãi, Thiện Trang chỉ nói: “Thiện Trang không biết, cô cố gắng coi lại trong kinh đi, để hiểu Chánh kiến là gì. Chứ cô nói dẫn như vậy là chưa đủ”. Thiện Trang chỉ nói chưa đủ thôi.

Quý vị thấy rõ ràng, có rất nhiều vấn đề, đây là Phật pháp, không phải đơn giản đâu. Để mình có một Chánh kiến thì rất khó, phải đọc Tam tạng kinh điển, rồi học, rồi tu hành lâu ngày thì dần dần ngấm. Còn mình biết đúng là may lắm rồi, gọi là biết được đúng, [nhưng] đó chưa phải là Chánh kiến. Mà biết đúng theo kinh Phật là may lắm rồi.

Đó gọi là, này Tỳ-kheo, có bốn đế này là thật hữu, không hư dối, là điều mà đức Thế Tôn nói, cho nên gọi là đế. Trong các loài chúng sanh hai chân, bốn chân ở cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng, Như Lai là tối thượng, đã thành tựu bốn đế này, nên gọi là bốn đế.

Quý vị thấy: Bốn đế này là thật hữu, tức là thật sự có, không hư dối, là điều mà đức Thế Tôn nói, cho nên gọi là đế. Vì đức Phật nói ra nên gọi là đế. Trong các loài chúng sanh haichân, bốn chân ở cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng, Như Lai là tối thượng, đã thành tựu bốn đế này. Chỉ có Như Lai [là tối thượng] thôi nha! Chứ không phải mấy loại kia, mình chưa có đâu. Nên nhiều người tưởng dễ ăn lắm. Vào bậc Thánh mới có, A-la-hán mới thực sự thông được Tứ đế. Sơ quả Tu-đà-hoàn vẫn chưa thông hoàn toàn, thông được một phần [thôi].

Ở đây có một định nghĩa của chữ ‘Lưỡng Túc Tôn’, quý vị thấy: trong các loài chúng sanh hai chân, bốn chân ở cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, … Như Lai [là tối thượng], thì trong bộ kinh khác cũng có giải thích. Chữ Lưỡng Túc Tôn có nghĩa là trong các loài hai chân, thì đức Thế Tôn (đức Phật) là người tôn quý nhất, nên gọi là Lưỡng Túc Tôn. Tức là tôn quý trong những loài hai chân, bởi vì hai chân đã là tôn quý rồi. Vì bốn chân làm sao mà tôn quý được, bốn chân quý vị đi bò bò dưới đất, nhiều chân càng bò nữa, con rắn thì không có chân, nó trườn trườn còn tội nữa. Cho nên loài nào hai chân đã là tôn quý rồi. Chúng ta may mắn sinh vào loài hai chân, [nhưng] chúng ta vẫn chưa phải tôn quý trong những loài hai chân. Tôn quý nhất trong loài hai chân là Lưỡng Túc Tôn, đó chính là đức Phật.

Cho nên định nghĩa trong Kinh A Hàm, trong Kinh Nikaya, nói đơn giản lắm: Lưỡng Túc Tôn tức là bậc tôn quý trong những loài hai chân; hai chân là loài tôn quý trong tất cả các loài khác. Chứ không phải Lưỡng Túc Tôn giải thích theo Đại thừa, các chư Tổ Trung Hoa giải thích là hai điều tôn quý: là Phước trí Diệu nghiêm, thì cũng đúng, cũng hay. Cho nên Thiện Trang thấy là theo Đại thừa thì giải thích điều gì cũng thành hay hết, nhưng theo nguyên thủy, [Kinh] Nikaya và [Kinh] A Hàm thì chỉ là giải thích những điều gì rất đơn giản và gần gũi với chúng ta.

Nếu ai biết học [thì] học cả hai bộ đó. Còn nếu mình bay lên trên Đại thừa quá, cuối cùng xa rời mình quá, thì nhiều khi mình sẽ thực hành không được. Mà thực hành không được thì mình tu đến cuối đời chả có thành tựu gì.

Còn nếu quý vị áp dụng được những điều mà gần gũi với mình, sau đó quý vị học thêm giáo lý Đại thừa, phát huy ngôn ngữ bay bổng lên thì tuyệt vời. Quý vị thấy, giống như hồi xưa [Thiện Trang] lỡ dịch trong Kinh A Di Đà, về xa luân [của] Chuyển Luân Thánh Vương to giống như là đĩa bay. Sau này Thiện Trang đọc Kinh A Hàm mới ngã ngửa ra là không phải, xa luân là bánh xe của Chuyển Luân Thánh Vương. Quý vị [gõ google tìm] Kinh Trường Bộ ở [trong] bộ Kinh Đại Thiện Kiến Vương hoặc là coi Kinh Du Hành ở trong Kinh Trường A Hàm, cũng nói về Đại Thiện Kiến Vương thôi, nhưng hai bộ tách ra thành hai tên, có nói rõ xa luân chỉ là một cái bánh xe bằng vàng không phải cõi Người làm, mà do chư Thiên cõi Trời làm. Xa luân chỉ [có] bán kính một trượng tư, nhỏ thôi, đâu có to gì đâu, Chuyển Luân Thánh Vương cầm lên được mà. Cho nên đôi khi mình phát huy ý nghĩa theo hướng nào đó thì thấy xa rời Phật pháp.

Thiện Trang nói [ở] đây là sám hối với quý vị, Kinh A Di Đà Thiện Trang lỡ dịch như thế rồi, sau này Thiện Trang phải điều chỉnh lại, vì đó là sai. Cho nên có những điều mình tưởng là chân lý nhưng không phải chân lý, nếu [như] mình không coi kinh. Nên ngôn ngữ phát huy là tốt, nhưng [phải] phát huy đúng theo kinh điển thì được, mà phát huy trật đi thì là sai. Có nhiều điều lắm và sau này quý vị coi [thì biết]. Tức là kinh thì đúng, nhưng người phát huy ra ý nghĩa sai. Rồi có những ngôn ngữ Duy Thức rất đơn giản, Thiện Trang phát hiện ra ở trong Kinh Lăng Già nói hết, [nhưng] sao người ta giảng kiểu khác rồi. Kinh Lăng Già không phải là kinh Tiểu thừa mà là kinh Đại thừa, và nói về ngôn ngữ Duy Thức mà mình nghe người ta giảng đi đâu.

Cho nên càng về sau thì Thiện Trang nói: Thôi! [Con] không tin các ngài. Con xin cám ơn các ngài, nhưng con học theo kinh thôi, chỉ có kinh điển con mới tin được thôi. Còn mặc dù các ngài được tôn vinh là chư Tổ v.v… thế nào con không biết, nhưng con thấy các ngài giảng không đúng với kinh, thì con không nương theo các ngài được.

Đó là lý do tại sao sau này, Thiện Trang trích dẫn kinh là chính, quý vị thấy không ạ? [Thiện Trang] toàn trích dẫn kinh thôi. Và chúng ta học với đức Thế Tôn, đức Phật, lời [trong] kinh Phật là yên tâm nhất. Thiện Trang cũng mong quý vị hãy phát huy tinh thần đó, và chúng ta có thời gian thì chúng ta nên coi thêm [lời của] chư Tổ, để chúng ta phát huy thêm những [gì của] thời đại. Những điều nào mà chư Tổ nói đúng với tinh thần của kinh, thì chúng ta nên sử dụng. Còn những điều nào mà trật, thì mình cứ mạnh dạn bỏ qua, đừng có chấp trước quá. Bởi vì các ngài cũng như mình thôi, các ngài cũng có những sai sót nhất định, vì các ngài cũng chưa thành Phật. Nên chúng ta phải thông cảm, chứ chúng ta không phỉ báng. Nhưng Thiện Trang muốn nói là [quý vị] cố gắng “y pháp bất y nhân”.Như vậy [là đã giảng] về Lưỡng Túc Tôn rồi.

Đó gọi là, này các Tỳ-kheo, có bốn đế mà do không giác tri nên sống chết xoay vần mãi trong năm đường (năm nẻo).

Ở đây đức Phật nói luôn nguyên nhân mà chúng ta xoay vần trong năm đường: Trời, Người, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh. Tất nhiên có A-tu-la nữa, và cũng xếp chung vô trong đó luôn. Tại sao có năm đường đó? Vì chúng ta không có giác tri. Ở đây thay vì ngôn ngữ là ‘biết như thật’ thì gọi là giác tri. #Tri là biết; còn #giác là giác ngộ, phải ngộ ra nữa. Mình giác ngộ rồi, biết rồi thì quý vị không xoay vần trong năm đường này nữa. Cho nên tiêu chuẩn này khó đúng không quý vị? Đâu có đơn giản đâu. Khi nào mà ngộ rồi, là giác tri; tri là biết, giác là giác ngộ hoặc là biết như thật. Ngôn ngữ là biết như thật, biết như thật Tứ đế rồi thì mình ra khỏi sanh tử thôi.

Nay Ta do đạt được bốn đế này, từ bờ này đến bờ kia, thành tựu nghĩa này, đoạn trừ cội gốc sinh tử, như thật biết rằng không còn tái sinh nữa”.

Quý vị thấy không ạ? Đức Phật mới nói: Do Ta đạt được bốn đế này từ bờ này đến bờ kia, thành tựu nghĩa này, đoạn trừ được cội gốc sanh tử, như thật biết rằng không còn tái sinh nữa. Cho nên là đâu có đơn giản đâu, mình tu làm gì tới đó được.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ rằng:

Nay có pháp bốn đế,

Nếu không như thật biết,

Luân hồi trong sinh tử,

Quyết không được giải thoát.

Như nay có Tứ đế,

Đã giác, đã hiểu rõ,

Nên đoạn gốc sinh tử,

Cũng không còn tái sinh.

Quý vị thấy không ạ? Nếu mà không biết như thật thì luân hồi trong sanh tử thôi, không chạy đi đâu [được], nên quyết không được giải thoát. Tứ đế này phải biết, mà biết như thật. Cho nên nhiều người nói: “Biết như thật khó quá thầy ơi”. [Thiện Trang nói]: đầu tiên là biết đã, biết đã là mừng rồi, rồi ngày nào ngộ ra [gọi] là giác. Ở dưới này nói thay vì biết như thật, thì đức Phật đổi chữ cho mình đúng không? Ở trong những Kinh A Hàm hay ở chỗ đó, tức là ở trên này là biết như thật, mình không biết như thật, biết như thật là như thế nào? Ở dưới này nói: ‘Như nay có Tứ đế; Đã giác, đã hiểu rõ’, tức là giác và hiểu rõ gọi là biết như thật. ‘Nên đoạn gốc sanh tử; Cũng không còn tái sinh’.

Khi nào mình giác, khi nào mình hiểu rõ [thì đoạn gốc sanh tử]. Cho nên Thiện Trang nói trong ba trí: là Trí văn, Trí tư và Trí tu, thì Trí tu giúp mình hiểu rõ ra, hiểu mà phải hiểu đúng như thật thì đó là giác. Còn mình có hiểu rõ Tứ đế là gì v.v… Khổ, nguyên nhân của khổ, rồi con đường diệt khổ, rồi khi hết khổ thì được điều gì, mình nói vanh vách, mình hiểu rõ luôn, sự hiểu rõ đó gọi là Trí tư. Còn quý vị nghe không [thôi] thì có Trí văn thôi, [ví dụ như] bây giờ là [quý vị] đang nghe [là Trí văn] thôi. [Còn] Trí tư có nghĩa là quý vị ngồi xuống, quý vị nghĩ thấy đời vô thường, đời khổ thiệt, hồi nhỏ mình sanh ra lớn lên rồi bị cha mẹ bắt đi học, bị thầy cô đánh đập, bảo đi học cho đàng hoàng. Rồi đi [học] về [gặp] những cơn mưa [quần áo bị] ướt đẫm, [rồi] bị bạn bè chặn đường đánh, v.v… đủ các kiểu, nên mình mới thấy [được] khổ. Và mình thấy đời sau mà như vậy nữa thì khổ nữa. Rồi bây giờ lớn lên cũng có được bao nhiêu ngày vui đâu. Có vui, tức là không phải nói không vui. Thật tế mà nói trong cõi Người này, một ngày nếu mình sống bình thường, thì thật ra mình có mấy tiếng vui, còn mấy tiếng khổ, đúng không quý vị?

Ví dụ như có 24 giờ, cho giờ ngủ là vui đi. Thật ra Thiện Trang thấy ngủ cũng chưa chắc vui, vì mệt rã rời nên [cơ thể] muốn ngủ, chứ [mình] có muốn ngủ đâu. Bây giờ mình tu rồi, mình ngủ ít lắm, khoảng 4 đến 6 tiếng thôi, cho chẵn 6 tiếng đi. 6 tiếng đó là ngủ không biết gì và ngủ cũng mệt. Thôi cứ cho 5 tiếng là ngủ trong an lạc vui vẻ, mà chưa chắc nữa, nhiều khi nằm mơ ác mộng, phải mộng thấy điều gì đó vui vui mới được, chứ ác mộng thì không được. Như vậy cho 5 tiếng vui luôn, 18 tiếng còn lại thì quý vị đi làm mỗi ngày 8 tiếng đồng hồ. Đi làm thì chắc đa số không ai vui, thôi [cứ] cho một tiếng vui đi, như vậy là 6 tiếng vui. [Rồi] đi công việc tức là từ nhà đến chỗ làm, đi chợ búa, hay đi đâu đó, mình cho hai giờ đi. Hai giờ đó thì chắc lúc nào vô tiệm mua sắm gì đó v.v… mới vui được chút, chứ còn đi ngoài đường nóng nực, mưa gió thì chắc không có vui đâu. Cho nên là cho vui thêm 1 tiếng nữa, là quý vị được 7 tiếng vui. Như vậy là còn mấy giờ ăn uống đúng không? Thôi cho ăn uống vui đi, nhưng ăn xong phải rửa chén, rồi nấu ăn thì cũng mệt mỏi.

 Tóm lại trong 24 giờ cho tối đa quý được 1/3 [là vui]. Tức là 8 giờ vui, còn lại 16 giờ là khổ. Như vậy khổ nhiều hơn vui, đó là cõi Người, mà ai có phước báo nhiều thì chắc có thể là 50/50. Cõi Trời thì người ta vui luôn, không có khổ. Còn Địa ngục thì khổ hoàn toàn, không có gì vui. Ở Súc sanh thì có vui không? Có! Lâu lâu cũng vui chứ, giống như con heo lâu lâu cũng được ăn vậy, cũng được cho gặp tình nhân, nó cũng vui chứ. Ở cõi Ngạ quỷ lâu lâu cũng được [ăn], như vậy là cũng có vui. Nhưng nói chung càng xuống dưới thì càng khổ nhiều, ít vui. Cho nên sự thật là khổ, ý là nói bản chất của tất cả mọi điều là khổ, chứ không phải mình nói tất cả đều là khổ. [Nói như vậy] thì người ta không chịu, phải nói là khổ nhiều vui ít. Và chúng sanh ở trong ba đường thì ở cõi dưới nhiều hơn ở cõi trên, tức là ở cõi khổ nhiều hơn ở cõi sướng.

Mình nói như vậy thì mình mới hiểu Tứ đế, chứ đè đầu đứa con ra nói: “Con ơi con! Ráng tu đi, đời là khổ, đời là khổ”. Nó [nghĩ]: “Bà bị khùng hả? Khổ đâu, tôi đang sướng ghê gớm mà. Hằng ngày tôi đi học có người cho tiền đi học, đi tới quán trà sữa, ăn uống trà sữa, lâu [lâu] đi hẹn hò bạn gái, bạn trai, đi chơi đá banh. Sướng [như] vậy mà khổ đâu”. Khi đó nói đời là bể khổ thì nó đâu có tin. Nhưng mình [phải] phân tích cho nó là: Con đang lứa tuổi đó, con được nhiều niềm vui hơn, còn [khi] lớn lên thì con sẽ [thấy] càng ngày càng khổ nhiều hơn. [Con] nhìn mẹ, nhìn cha, nhìn ông bà [đi]” v.v… [Quý vị] phân tích cho nó thấy, thì nó mới chán được. Chứ không phải quý vị cứ đè đầu nói: khổ, khổ, khổ…

Cho nên có phải trí tuệ biện tài, mà điều đó là từ mình hiểu rõ, đó là Trí tư thôi. Còn bao giờ mà quý vị ngộ, ngộ là gì? Khi nào đó [quý vị] đang ngồi đây, ví dụ Thiện Trang đang giảng pháp, quý vị thấy thầy Thiện Trang là Pháp sư giảng pháp sung sướng lắm, được bao nhiêu người nghe, bao nhiêu người cung kính, cảm ơn thầy, v.v… Thiện Trang nói thật, [giảng cũng] khổ. Vì sao? Ở cõi này, ngay cái thân này là khổ rồi, lên giảng [pháp] mệt mỏi, đâu có tự tại đâu. Giảng cũng phải học, bao giờ giảng không cần học, không cần chuẩn bị giống như đức Phật, thì mới tự tại, mới sướng. Đức Phật đâu cần học gì đâu, ai gặp đức Phật thì Ngài quán căn cơ nói ngay, và nói mọi thứ ở đời đều rõ ràng sáng suốt. Đó mới gọi là ngộ.

[Còn] mình ngộ là gì? Tức là mình biết mọi thứ, mình đang sống trong khổ đó, và đừng nghĩ là vui. Đang ăn, mình biết việc ăn này thật sự có niềm vui một chút thôi, rồi sau này cũng khổ. Ăn xong no [rồi] buồn ngủ, và nhiều khi ăn hóa chất [vẫn còn] trong [người]. Còn ăn là còn khổ, vì ăn là phải tốn tiền, tốn tiền thì phải đi kiếm tiền để [mua thức] ăn nữa. Rồi thân này khổ, vì sao? Không có nhà ở là khổ! [Phải] tự mình ngộ ra, không ai dạy mình cơ. Điều nào mà mình tự mình giác ngộ ra, không ai dạy mình thì may ra mới gọi là giác. Và sự giác đó nhiều đến mức độ, đủ để lúc nào cũng thấy được như vậy, thì đó gọi là biết như thật về khổ. Mà [đấy] mới biết như thật về khổ thôi, [còn] phải biết về nguyên nhân của khổ là Tập đế đó, rồi biết như thật về con đường để diệt khổ là Đạo đế, và biết như thật về Diệt đế nữa, thì đó mới thành công. Khi đó chúc mừng quý vị, quý vị xong [việc] rồi đó, quý vị coi như bye bye dòng Sanh tử Luân hồi, quý vị trở thành A-la-hán.

Còn nếu chúng ta biết được một phần, thật ra quý vị biết được khổ thôi, là quý vị cũng có tâm xuất ly. Quý vị sẽ học Phật pháp rất mạnh mẽ, dần dần trước sau gì thì quý vị cũng vô dòng Thánh thôi, chả chạy đi đâu hết. Cho nên quý vị hãy ráng tu tập nha!

 “Nếu có chúng bốn bộ (là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di) nào không được đế này, không giác, không tri, thì sẽ đọa vào năm đường (năm nẻo).(Đọa năm đường là Trời, Người, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, [còn] A-tu-la là có trong năm đường đó). Cho nên, này các Tỳ-kheo, hãy tìm cầu phương tiện thành tựu bốn đế này. Các Tỳ-kheo, hãy học điều này như vậy”.

Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

(Trích Từ Kinh Số 1 – Phẩm Tứ Đế Thứ 25 – Chương Bốn Pháp – Kinh Tăng Nhất A Hàm).

Vậy thì quý vị hiểu rồi đúng không? [Thiện Trang] xin chia sẻ để quý vị vui thêm một chút. Thật ra mai mốt mình học Luận Câu Xá này vào phần sau, quý vị sẽ thấy lộ trình (con đường) ra khỏi sanh tử rõ lắm. Đó là gì? Thiện Trang xin tóm tắt nói ngắn gọn cho quý vị dễ hiểu, nếu nói và học tới chỗ đó thì dài lắm.

Có nghĩa đầu tiên là mình phải gieo trồng được thiện căn. Hôm bữa Thiện Trang có nói trong lớp [học] thứ hai, giống như quý vị có một đám vườn, đám ruộng, thì Thiện Trang là người giảng pháp, hoặc chúng ta là những người học pháp, mục tiêu là chúng ta ném vô trong đó những hạt giống, [ví dụ] hạt giống [của] lúa, hoặc cây ngô (bắp), cây gì đó… mình trồng cây gì thì mình ném [hạt giống] đó vô. Mình muốn trồng thành cây lúa thì mình ném hạt lúa, muốn cây ngô (bắp) thì ném hạt ngô vô, cây đậu thì ném [hạt đậu] vô. Những đám [vườn] đó đang khô cằn lắm, không cách nào lên được. Nhưng mình cứ quăng [hạt giống] vô đó đi, để trồng thiện căn, để mai mốt được trái bắp [giống như] là quả vị Bích-chi-phật, hạt lúa là giống như quả vị Thanh văn, còn hạt đậu giống như quả Tu-đà-hoàn vậy đó. Mình ném vô đó tức là mình đang học, đang nghe pháp đây, là để mình vun trồng như vậy. Và đến lúc nào đó khi bất chợt có một cơn mưa xuống, các hạt đủ điều kiện thì tự nhiên sẽ nảy mầm, rồi sẽ đơm hoa kết trái, ra được [là] chứng quả.

Giai đoạn đầu tiên gọi là trồng thiện căn, quý vị phải tu tập được giai đoạn như vậy. Khi có thiện căn rồi thì vị trí đó gọi là Đảnh vị trong Tứ gia hạnh, có nghĩa là quý vị đã trồng được thiện căn rồi. Cho nên ở trong bài kệ có nói: “Đảnh bất đoạn thiện căn”. Đảnh vị là không mất thiện căn nữa, vì hạt giống đó đã vô trong vườn của quý vị rồi. Còn Noãn vị là ấm ấm, giống như ta ném hạt vô, nhưng hạt đó bị nước trôi ra ngoài mất, hoặc mình ném vô nhưng bị sâu hay bị kiến ăn mất rồi, [nên] hạt đó không lên được, đám đất đó chẳng có cây nào.

Đó là Noãn vị, ấm ấm thôi, nhưng dù sao cũng có cơ hội. Noãn vị là chắc chắn vào rồi, trước sau cũng có hạt đó, nên [sẽ] lên, gọi là Noãn vị. Còn nếu Đảnh vị là ngon rồi, hạt đó chắc chắn lên. Rồi tới Nhẫn vị thì quý vị không đọa đường ác nữa. Có nghĩa là đám ruộng của quý vị tới mùa rồi, chắc chắn phải trổ, và Thế đệ Nhất vị là ngon rồi, chắc chắn là sẽ vào [quả vị Thánh]. Sau này mình học ra những quả vị như vậy, rồi một hồi mới tới Sơ quả Tu-đà-hoàn.

Cho nên chỉ cần vào dòng Tứ gia hạnh thôi là ngon rồi quý vị! Miễn là mình trồng được căn lành. Mà mình muốn trồng được căn lành như vậy, thì chúng ta [phải] cố gắng nghe pháp, học pháp đi, nghe tới nghe lui, học tới học lui, thì thiện căn [sẽ] đủ mạnh. Và trong đó có đưa ra một dấu hiệu, là người nào [khi] nghe kinh Phật, nghe pháp Phật, thấy những chuyện của Phật, v.v… mà có cảm động, rơi lệ, chảy nước mắt, thì những người đó đã có được hạt giống Bồ-đề rồi, chính là có hạt giống giác ngộ rồi. Có nghĩa đã ném được vô trong đó những hạt lúa, hạt đậu, hạt bắp rồi. Chúc mừng quý vị! Trước sau gì cũng chứng quả thôi, không lâu nữa đâu. Cho nên ai mà có những cảm động đối với Phật pháp, thế này thế kia, thì chúc mừng quý vị! Quý vị cũng đã đi qua được một giai đoạn khá dài để vun trồng thiện căn.

Bữa nay nói như vậy để quý vị vui hơn, quý vị yên tâm nha! Chứ không phải mình tu đường dài xa quá. Không! Bây giờ con đường đã gần. Thiện Trang tin là những người đang nghe những bài pháp khó như Thiện Trang chia sẻ trong Luận Câu Xá này, là những người đã vào dòng đó rồi, tức là vào dòng trồng được thiện căn rồi. Chứ không [là] nghe không nổi đâu, chắc là bỏ chạy sớm rồi. Hôm nay chia sẻ thêm niềm vui cho quý vị. Chúc mừng quý vị! Quý vị đã gần tiến đến địa vị Thánh nhân rồi đó. Nếu mà học thì có thể gọi là vào dòng Hiền rồi, hoặc là sắp vào dòng Hiền. Từ dòng Hiền lên đến dòng Thánh không có lâu nữa, cho nên quý vị cố gắng! Nếu chậm quá [thì] mấy đời nữa, còn nhanh thì giải quyết luôn, đời này làm xong. Vậy nên [quý vị] ráng tu đi nha! Hạt giống Bồ-đề mình đã có, ráng làm sao dò dò, tưới nước đúng chỗ đó, để hạt giống lên là ok.

Hôm nay Thiện Trang xin giới thiệu thêm một phần nữa trong 40 Đề mục tu Thiền chỉ (Samatha) theo Luận Thanh Tịnh Đạo. Tại vì Thiện Trang nói là sẽ chia sẻ hết 40 đề mục này, ít nhất là giới thiệu sơ qua. Chúng ta coi lại để nhớ:

40 Đề Mục Tu Thiền Chỉ (Samatha) Theo Luận Thanh Tịnh Đạo Của Ngài Buddhaghosa (Phật Âm)
Tên loạiSố lượngCụ thểKết quả
A. Biến xứ10Đất; Nước; Lửa; Gió; Xanh; Vàng; Đỏ; Trắng; Hư Không Giới Hạn; Ánh SángChứng tới Tứ thiền Sắc giới
B. Bất mỹ (tịnh)10Tử thi sình trương; Tử thi xanh tái; Tử thi tràn dịch; Tử thi nứt nẻ; Tử thi bị gặm xé; Tử thi bị rời rạc; Tử thi bị phân đoạn; Tử thi bê bết máu; Tử thi bị dòi đục; Tử thi hài cốt.Chỉ chứng tới Sơ thiền
C. Tùy niệm10Tùy niệm Phật; Tùy niệm Pháp; Tùy niệm Tăng; Tùy niệm giới; Tùy niệm thí; Tùy niệm thiên; Tùy niệm chết; Tùy niệm tịch tịnh;Không đắc Thiền, chỉ đưa đến cận định hay định cận hành.
Niệm thân thể trược;Chỉ chứng tới Sơ thiền
Niệm hơi thở;Chỉ chứng tới Tứ thiền Sắc giới
D. Phạm trú4Từ; Bi; Hỷ;Chứng tới Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền
Xả.Chứng Tứ thiền Sắc giới
E. Vô sắc4Không vô Biên xứ; Thức vô Biên xứ; Vô sở Hữu xứ; Phi tưởng Phi phi Tưởng xứ.Chứng Tứ thiền Vô Sắc giới
F. Tưởng1Tưởng nhờm Gớm thức ănKhông đắc Thiền, chỉ đưa đến Cận định hay Định cận hành
G. Phân biệt1Phân biệt Bốn nguyên tốKhông đắc Thiền, chỉ đưa đến Cận định hay Định cận hành
*10 đề mục biến xứ là điều kiện cho đắc Thần thông Thắng trí
*Đề mục niệm hơi thở là đề tài vừa Chỉ vừa Quán.
Các Đề Mục Tu Thiền Chỉ (Tiếp Theo)
*Đề mục Biến xứ lửa
*Đề mục biến xứ gió
*Đề mục Tùy niệm Pháp theo Luận Thanh Tịnh Đạo.

Đề mục Biến xứ thì có 10 đề mục: Đất; Nước; Lửa; Gió; Xanh; Vàng; Đỏ; Trắng; Hư Không Giới Hạn; Ánh Sáng, thì chứng tới Tứ thiền Sắc giới. Đề mục Bất tịnh (Bất mỹ) thì có 10 đề mục quán về Tử thi, thì chỉ chứng tới Sơ thiền. Đề mục Tùy niệm gồm có: Tùy niệm Phật; Tùy niệm Pháp; Tùy niệm Tăng; Tùy niệm giới; Tùy niệm thí; Tùy niệm thiên; Tùy niệm tử (Tùy niệm chết); Tùy niệm tịch tịnh, thì không đắc Thiền, chỉ đưa đến Cận định hay Định cận hành (Vị đáo định). Đề mục Niệm thân thể trược thì chứng tới Sơ thiền; Và Niệm hơi thở thì chứng tới Tứ thiền Sắc giới. [Những đề mục] Tùy niệm như Tùy niệm Phật thì mình đã học qua rồi. Hình như hôm bữa [Thiện Trang] cũng chỉ cho [quý vị] về Đất và Nước rồi. Hôm nay [Thiện Trang] sẽ chia sẻ thêm về [đề mục] Lửa, Gió và Tùy niệm Pháp. Mình chia sẻ dần dần rồi cũng hết thôi. Một lúc thì quý vị nghe không nổi, nên mình cứ từ từ, mỗi bữa chia sẻ một chút rồi cũng hết.

Đề mục Phạm trú: Từ; Bi; Hỷ thì chứng tới Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền; còn [đề mục] Xả thì chứng tới Tứ thiền Sắc giới. Đề mục Vô sắc: Không vô Biên xứ; Thức vô Biên xứ; Vô sở Hữu xứ; Phi tưởng Phi phi Tưởng xứ, thì chứng Tứ thiền Vô Sắc giới. Đề mục Tưởng nhờm Gớm thức ăn thì không đắc Thiền, chỉ đưa đến Cận định hay Vị đáo định. Còn đề mục Phân biệt Bốn nguyên tố: Đất, Nước, Lửa, Gió thì không đắc Thiền, chỉ đưa đến Cận định hay Vị đáo định.

10 đề mục Biến xứ là điều kiện cho đắc Thần thông Thắng trí: tức là muốn có Thần thông Thắng trí (trí thù thắng về Thần thông) thì chúng ta phải tu 10 đề mục trên. Còn đề mục Niệm hơi thở là đề tài vừa tu Thiền chỉ vừa Thiền quán.

Hôm nay Thiện Trang xin giới thiệu: Các đề mục tu Thiền chỉ tiếp theo, là đề mục Biến xứ Lửa. Tức là có người thích tu niệm đề mục Lửa để đắc Thiền chỉ, thì tu như thế nào? Bây giờ xin giới thiệu.

Về đề mục Lửa này, nếu một người có căn lành nhiều đời tu tập đề mục này rồi, thì cũng chẳng cần phải tu đề mục này đâu, mà họ chỉ cần nhìn thấy những gì có [ánh] lửa như ngọn nến, ngọn đèn, bếp lò hay đám cháy rừng, v.v… thì tự nhiên họ khởi được Vị đáo định, từ đó là họ vào luôn, có thể là họ đắc luôn. Giống như ngài Mục Kiền Liên, do nhiều đời tu Thiền chỉ nên ngài có Thần thông rất mạnh mẽ. Cho nên có những người trong đời này, chỉ cần có duyên một chút là tự nhiên họ có Thần thông, chẳng cần phải tu. Giống như quý vị chỉ cần có duyên với đề mục này thôi, vì nhiều đời quý vị tu đề mục này nhiều quá mà, quý vị quán một cái thì quý vị thấy toàn là lửa. Từ đó là mình đắc Thần thông, đắc được đề mục này.

Còn những người mới mẻ như chúng ta thì phải tu thôi. Cách tu như thế nào? Trong Luận Thanh Tịnh Đạo nói rằng: dùng củi gỗ cháy lâu, bó lại, chất lên, để làm lửa đốt (giống như đốt lửa trại), nhưng phải lấy tấm màn che trước đám lửa. Tức là để mình chỉ thấy đám lửa thôi, đừng thấy cảnh đằng sau đó. Chứ không phải đốt lửa trại rồi ngắm cảnh, rồi nhìn ra xa xăm thấy nước, mây, trời gì đó, nhìn thấy người đi qua đi lại, v.v… thì sẽ bị phân tâm. Mà quý vị phải dùng tấm màn che lại, chỉ thấy lửa không thôi.

Thật ra tấm màn này là che đằng trước, chứ không phải che đằng sau. Và trên tấm màn thì khoét lỗ tròn có đường kính hơn một gang tay, để người ngồi đằng sau nhìn lửa qua lỗ của tấm màn đó, rồi chú tâm niệm: Lửa, lửa, lửa… Làm sao đó đến khi nhắm mắt lại vẫn thấy ánh lửa còn bập bùng lên, lay động, thì đó là ứng chứng Trì tướng, tức là mình đắc được Vị đáo định rồi. Mãi một thời gian sau thì tới Tợ tướng, rồi bắt đầu vào đạt đến Cận định, và dần dần chứng lên tới Sơ thiền trở lên.

Điều này cũng dễ thôi, không khó! Thời nay cũng chẳng cần phải đốt lửa đâu, có một cách là quý vị cứ mở tivi lên, có video nào chuyên về lửa, rồi lấy gì đó che hết lại, làm sao chỉ để thấy lửa thôi, thấy vòng tròn có ánh lửa cứ bập bùng, bập bùng. Bây giờ có kính thực tế ảo nữa, ai giàu thì xài cái đó, cứ coi ánh lửa miết đến khi nhắm mắt lại cũng thấy lửa. Cứ luyện lâu ngày như vậy thì sẽ nhập vào định, lúc nào cũng thấy lửa một hồi dần dần toàn thấy lửa không, cả trời lửa. Mà tu đề mục này dễ cháy nhà lắm nha. Lỡ đắc định rồi mà nghĩ nhà cũng là lửa thì cháy nhà luôn, cho nên cũng nguy hiểm.

Cho nên tu đề mục này thì phải [tìm] vị trí nào tu cho phù hợp, chứ nhiều khi đắc định rồi, mà lỡ nghĩ lửa, lửa, lửa một hồi là nhà bùng cháy luôn. Vì lúc đó quý vị đắc Thiền rồi, đắc được Nhị thiền trở lên thì định lực của quý vị tạo ra lửa, cho nên cháy nhà thì nguy hiểm. Cho nên thôi ra ngoài khu nào vắng, hay thất nào đó ở đi, thì tu đề mục này mới được. Vì lần đầu quý vị chưa làm chủ được, sau này khi quý vị làm chủ rồi thì quý vị muốn thu lửa lại thì thu thôi. Đấy là một đề mục tu. Đơn giản không quý vị? Rất là đơn giản, không có khó khăn gì.

Tiếp theo chúng ta đến đề mục Biến xứ Gió. Đề mục Lửa thì tất nhiên là có Thần thông rồi, Thần thông để đốt cháy cái gì đó thì dùng lửa. Còn đề mục Gió để làm gì quý vị biết không? Đề mục Gió là để tạo ra gió, và để di chuyển. Ai muốn có Thần thông để di chuyển thì tu đề mục Gió này.

Đề mục Biến xứ Gió này thì tu thế nào? Đề mục này khó, vì mình đâu có thấy gió. Gió thổi ào ào nhưng mình đâu có thấy gió đâu mà tưởng, cho nên khó. Vì gió là hiện tượng dao động của không khí, nên làm sao thấy được. Nhưng nếu mình có cách tu thì vẫn tu được. [Đó là] nhận biết cảm giác mát trên thân, trên da của mình, rồi sự lay động của lá cây. Tức là quý vị chú ý sự xúc chạm của gió trên da thịt, ví dụ như quý vị chắc phải mặc đồ mỏng mỏng thế nào đó, để cảm thấy gió [chạm vào da thịt]. Hoặc là nhìn lá cây rung rung hay ngọn cỏ bị lay động bởi gió, rồi tưởng tượng là có gió, rồi bắt đầu niệm gió, gió, gió… Quý vị cứ niệm như thế, đến khi đủ thì xuất hiện hiện tượng là quý vị nhắm mắt hay mở mắt lúc nào cũng thấy gió. Và dần dần vào được Thiền chỉ của Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền.

Đó là đề mục tu về Gió, đề mục này hơi khó tu. Nhưng những người có duyên thì họ sẽ tu được. Và khi tu đề mục Gió mà quý vị đạt được định Nhị thiền trở lên, thì quý vị muốn thu mình bay theo gió thì cũng được luôn. Khi đó là mình đắc Thần thông. Đề mục này thì giới thiệu cho quý vị biết thôi, chứ Thiện Trang nghĩ cũng khó tu, vì bây giờ ở trong nhà đâu có gió. Nhưng nếu mở quạt thì có gió, chắc cũng tu được, mình có thể tưởng tượng.

Trong 4 đề mục: Đất, Nước, Lửa, Gió thì Thiện Trang đã giới thiệu thêm 2 đề mục nữa rồi. Đề mục màu Xanh đã giới thiệu rồi, còn đề mục Vàng, Đỏ, Trắng, Hư không và Ánh sáng nữa là hết 10 đề mục Biến xứ. Vì tu 10 đề mục Biến xứ này có Thần thông mà, nên chắc quý vị muốn biết rõ hơn. Rồi Thiện Trang sẽ giới thiệu mấy đề mục về Tùy niệm cũng quan trọng. Còn mấy đề mục Vô sắc (Không vô Biên xứ; Thức vô Biên xứ; Vô sở Hữu xứ; Phi tưởng Phi phi Tưởng xứ) thì chắc khỏi, vì có ai tu đến đó đâu. Còn ai muốn tu đến đó thì tự đi học. Thiện Trang chỉ giới thiệu thêm đề mục Từ, Bi, Hỷ, Xả nữa. Mục tiêu của Thiện Trang là như thế.

Hôm nay [Thiện Trang] giới thiệu thêm đề mục Tùy Niệm Pháp Theo Luận Thanh Tịnh Đạo.

*Đề Mục Tùy Niệm Pháp Theo Luận Thanh Tịnh Đạo
Niệm tưởng những đức tính đặc biệt của pháp được đức Phật thuyết, gọi là niệm Pháp.
A. 6 đức tính hay 6 ân đức của Pháp:
(1) Giáo pháp được khéo thuyết bởi đức Thế Tôn(2) Thiết thực hiện tại
(3) Vượt ngoài thời gian (4) Đến để mà thấy
(5) Hiệu năng hướng thượng (6) Trí giả tự chứng
B. Các bước tu tập
1. Học hiểu và thông ý nghĩa sáu ân đức Pháp2. Đi đến chỗ yên tĩnh độc cư
3. Ngồi xuống và khởi niềm tin mãnh liệt đối với giáo pháp.4. Bắt đầu niệm tưởng những đức tính đặc biệt của giáo pháp
C. Kết quả
1. Khi hành giả suy nghiệm những đức tính đặc biệt của Pháp như vậy thì ngay khi ấy, tâm vị ấy không bị tham sân si chi phối và tâm được an tịnh nhờ cảm hứng từ Pháp.
2. Do tâm an tịnh nên chế ngự Triền cái, hỷ sanh, khinh an sanh, Chi thiền khởi lên.
3. Bởi do tâm bận niệm tưởng nhiều khía cạnh của những ân đức Pháp nên vị ấy chỉ đạt đến cận hành định (Vị đáo định), chứ không đắc được An chỉ định (các tầng thiền).
4. Chuyên tâm niệm tưởng đặc tính cao quý của giáo pháp, vì thấy những đức đặc biệt của Pháp nên vị ấy tôn trọng Pháp, tịnh tín Pháp, vị ấy sẽ được nhiều hạnh phúc, nhiếp phục được nỗi sợ hãi, có khả năng nhẫn khổ.

Thế nào là Tùy niệm Pháp? Là pháp mà niệm tưởng những đức tính đặc biệt của pháp được đức Phật thuyết, gọi là niệm Pháp. Ở đây là giới thiệu theo Luận Thanh Tịnh Đạo, chứ không phải là giới thiệu trong kinh.

Đầu tiên là quý vị phải nắm được giáo pháp của Phật có 6 đức tính hay 6 ân đức của Pháp.

A. 6 đức tính hay 6 ân đức của Pháp:

1. Giáo pháp được khéo thuyết bởi đức Thế Tôn: điều này thì cũng dễ thôi. Giáo pháp là do ai thuyết? Lời Phật dạy thì là do đức Phật thuyết thôi, thì có tính là: hoàn hảo ở chặng đầu, hoàn hảo ở chặng giữa, và hoàn hảo ở chặng cuối. Ở trong Chú Giải của Kinh Vô Lượng Thọ gọi là: Sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Mình nói theo ngôn ngữ là kinh Phật lúc nào cũng hoàn hảo ở đoạn đầu, hoàn hảo ở đoạn giữa và hoàn hảo ở đoạn cuối.

Giáo pháp của Phật hoàn hảo là vì sao? Vì văn nghĩa đầy đủ, vì đưa đến kết quả tốt đẹp cho người thực hành. Vì hoàn toàn viên mãn, không cần gì thêm bớt. Vì được tuyên bố thích đáng, không có sự mâu thuẫn. Và vì đạo lộ thực hành cùng với mục đích cứu cánh, được tuyên bố một cách xác thực chắc chắn, nên được gọi là khéo được đức Thế Tôn thuyết.

Như vậy ở đây có mấy điều, chúng ta nói lại: Giáo pháp của Phật là hoàn hảo ở đoạn đầu, hoàn hảo ở đoạn giữa, hoàn hảo ở đoạn cuối. Tức là giáo pháp của Phật rất tuyệt vời. Thiện Trang thích những bộ kinh ngắn ngắn như Kinh A Hàm, Kinh Nikaya, tức là một đoạn kinh ngắn ngắn thôi, nhiều khi nghe có 3 phút, 4 phút hay 5 phút thôi, hoặc là mình coi qua có mấy phút, nhưng thấy hoàn hảo ở đoạn đầu, hoàn hảo ở đoạn giữa và hoàn hảo ở đoạn cuối rõ ràng đúng không? Mình nghe xong mình thấy có được lợi ích liền. Tuy ngắn thôi, như một câu chuyện, một vấn đề rất nhỏ nhưng đức Phật nói rất hoàn hảo, không thể nào hoàn hảo hơn.

Và văn nghĩa đầy đủ, quý vị thấy nghĩa đầy đủ, rõ ràng lắm. Rồi đưa đến kết quả tốt đẹp cho người thực hành. Tức là người thực hành thì thấy hiệu quả luôn. Ví dụ như đoạn kinh ở trên đâu có dài đâu, nói về Tương ưng chư Thiên, nói về cách xài tài sản thế nào, mình học một chút mà thấy có lợi ích liền. Từ nay trở đi hết nỗi lo sợ thiếu tiền, vì đức Phật cho phép tiết kiệm, tích lũy 25%. Rồi từ nay trở đi mình cũng bớt sống khổ hạnh, vì đức Phật cho phép 25% xài cho gia đình. Như vậy là đỡ rồi đúng không?

Tất nhiên trong một bộ kinh khác thì đức Phật nói là chia ra ba phần: Một phần là để bố thí, cúng dường để tạo phước thêm. Chúng ta thấy chỗ đó thì mình cũng ok, cũng giống nhau thôi. Tức là chia thế nào thì cũng tùy, nhưng mình thấy thực hành là có lợi ích ngay.

Tiếp theo là [giáo pháp của Phật] hoàn toàn viên mãn, không có gì thêm bớt. Lời Phật nói là đủ rồi, [còn] những bộ kinh cần thêm bớt là do những bộ kinh đó đức Phật đã nói bên [bộ] kia rồi, chẳng qua mình bổ sung qua bổ sung lại thôi. Nói chung là nói giáo pháp mà, chứ đâu phải một bộ kinh đâu. Giáo pháp của Phật là quá hoàn hảo, không cần thêm bớt nữa. Cho nên ai nói thêm bớt, hồi xưa đức Phật không nói điều đó, bây giờ mình nói ngoài nắm lá của đức Phật. Giống như trong Kinh A Hàm, Kinh Nikaya đức Phật nắm một nắm lá trong tay và hỏi: “Lá trong tay Ta nhiều, hay lá trong rừng nhiều? Này A Nan, những pháp mà Ta giảng so với pháp mà Ta biết, thì ít giống như lá trong tay so với lá trong rừng”.

Cũng vậy, bây giờ mình nói hơn Phật, giảng pháp ở đâu bên ngoài nắm lá trong tay [của Phật] thì thôi luôn, không có chuyện đó. Nên nhớ đức Phật nói tuy không nhiều, nhưng cũng quá đầy đủ. Và với những gì đức Phật nói thì đủ cho mình suy luận trong thời hiện đại, đủ xài rồi. Chứ không phải thời xưa Phật nói rồi bây giờ không xài được. Từ từ chúng ta sẽ nói đến tính chất đó.

Tiếp theo là sự tuyên bố thích đáng, không có sự mâu thuẫn. Giáo pháp của Phật không mâu thuẫn. Nếu quý vị thấy mâu thuẫn, thì quý vị hãy xem lại. Tại sao? Mâu thuẫn đó từ đâu ra? Thiện Trang tin rằng mâu thuẫn đó là từ người giảng, từ chư Tổ nào đó đưa ra. Cho nên hôm bữa có người hỏi Thiện Trang một câu hỏi rất hay là: Theo một số vị chư Tổ nói là Sơ quả Tu-đà-hoàn thì có một năng lực gọi là ‘ly ngộ sát’. Ly ngộ sát có nghĩa là mình đi đâu thì mấy con trùng, con gì đó núp hết, cho nên cày ruộng gì đó thì không sát sanh. Nhưng tại sao trong Tích Truyện Pháp Cú, tức là Kinh tạng Nikaya, Tiểu Bộ Kinh, có đưa ra [câu chuyện] một vị Tỳ-kheo (ngài A Na Luật) sau khi chứng được A-la-hán rồi, mà do bị mù mắt nên ngài đi giẫm đạp chết bao nhiêu con. Tại sao kỳ vậy? Rồi trình lên đức Phật nói là vị đó đi đạp chết bao nhiêu con trùng, con này con kia… Đức Phật nói là vị đó không phạm giới, vì ổng đã chứng A-la-hán rồi. Vì ổng mù, không thấy đường cho nên ổng giẫm vậy thôi.

Quý vị thấy rõ ràng có câu chuyện như vậy, thì người đó đưa ra [câu hỏi] là: “Sao mâu thuẫn vậy thầy? Sơ quả Tu-đà-hoàn thôi mà người ta đã ly ngộ sát rồi, còn ngài đó là Tứ quả A-la-hán thì phải hơn Sơ quả chứ, sao lại như vậy?” Thiện Trang nói là: Hồi xưa Thiện Trang không biết, nhưng giờ Thiện Trang đã coi hết Kinh A Hàm với Kinh Nikaya rồi, Thiện Trang khẳng định với quý vị là không có chi tiết nào nói Sơ quả Tu-đà-hoàn ly ngộ sát. Nên nhớ ngay cả A-la-hán còn giẫm chết bao nhiêu con vật, nếu như ngài không thấy đường. Cho nên đấy là một phát kiến của một vị nào đó, từ đó truyền cho đến giờ. Đó là một điều truyền không chính xác. Thiện Trang khẳng định điều đó không có trong Kinh A Hàm, Kinh Nikaya.

Còn quý vị giỏi, quý vị tìm từ đâu đó thì quý vị chỉ giùm cho Thiện Trang là từ bộ kinh nào. Còn Thiện Trang không tìm thấy, nên Thiện Trang nghĩ có khả năng đó là một phát kiến của ai đó. Có thể do người ta tu tập bằng sức Thiền định người ta thấy như vậy. Thấy là vị Sơ quả Tu-đà-hoàn đó có năng lực như vậy, rồi [cho là như vậy]. Nhưng đó là vị đó thôi, có rất nhiều nguyên nhân để có năng lực đó. Ví dụ như đời trước quý vị phát nguyện Ba-la-mật là: “Con từ đây cho đến đời vị lai, với công đức tu tập của con, con sẽ khiến cho chúng sanh không bị giẫm đạp dưới chân con, không bị tan nát dưới chân con. Con nguyện từ đây cho đến khi thành Phật, con không làm những nghiệp đó”. Do nguyện lực đó, khi Ba-la-mật của quý vị đủ thì phát huy tác dụng. Và do có câu chuyện như vậy, nên khi có người nhập định thấy như vậy, nên họ mặc định là Sơ quả Tu-đà-hoàn thì có năng lực đó. Quý vị hiểu không ạ?

Điều này thì đức Phật có nói rất nhiều, có những Tà kiến là do một người chỉ thấy một trường hợp, mà họ đoán là các trường hợp [khác đều như vậy]. Này các Tỳ-kheo, đó là các vị chư Thiên, các vị Phạm thiên v.v… họ như vậy. Nhưng đức Phật nói đó chỉ là một trường hợp thôi, chứ không [phải] đúng như vậy.

Giống như nói người tu thiện, tu lành, v.v… sau khi chết thì họ sẽ sanh về cõi lành. Và tất cả mọi người đều như vậy. Đức Phật nói: Này các Tỳ-kheo, đó là một sai lầm. Họ tu lành cả đời nhưng chưa chắc lúc lâm chung họ sẽ sanh vào cõi lành. Vì đến lúc lâm chung họ sanh về cõi lành là đương nhiên, nhưng có những trường hợp khi lâm chung họ khởi lên những ý niệm chấp giữ một Tà kiến nào đó, họ khởi lên thì họ sẽ đọa theo Tà kiến đó, và sẽ đọa vào đường ác.

Cho nên không phải 100%. Đức Phật luôn khẳng định rằng: Không có sự tuyệt đối cho những phàm phu. Chỉ có tuyệt đối cho Thánh nhân thôi, còn phàm phu thì không có tuyệt đối. Bao giờ quý vị chứng Sơ quả Tu-đà-hoàn, thì không có lý do nào quý vị đọa vào đường ác hết. Không có! Bởi vì Sơ quả Tu-đà-hoàn không còn [bị đọa vào đường ác]. Đức Phật nói rõ trong Thập lực của Như Lai, tức là trong 10 trí lực của Như Lai thì có một trí là Tri thị Xứ phi Xứ lực (là trí biết về đâu là đúng, đâu là sai), thì đức Phật khẳng định là: Một vị Sơ quả Tu-đà-hoàn không bao giờ có quá 7 lần [lên xuống] trong cõi Dục. Không có chuyện đó! Và một vị Sơ quả Tu-đà-hoàn không bao giờ đọa vào đường ác. Không phải một vị Sơ quả Tu-đà-hoàn đâu, mà một vị Chuyển Luân Thánh Vương không đọa đường ác sau khi chết, chắc chắn sẽ sanh lên cõi Trời. Một người ở cõi Bắc Cô Lô Châu không thể nào đọa được, họ chắc chắn sanh lên cõi Trời hết. Đó là trí lực của Như Lai, một trong 10 điều gọi là Thập lực Vô úy, mai mốt chúng ta sẽ học tới đó.

Cho nên hãy tin vào giáo pháp của Phật, còn lại những gì mình thấy, giống như mình phát kiến ra [một điều gì đó] thì một hồi trật ráng chịu. Tại vì sao? Vì mình không phải là Phật, nên nhớ như vậy. Mình thấy điều đó đúng. Đúng! Có thể đúng đến 99, 9999… nhưng vẫn còn 0,000…1 là sai, có một chút sai thì vẫn là sai, không có tuyệt đối đâu. Chỉ có Thánh nhân mới đúng thôi, nên mình là phàm phu chưa chắc [đúng] đâu.

Cho nên chớ vội tin điều nào tuy là được truyền thống lưu truyền, tuy là thầy mình dạy, nhưng chưa chắc đúng, mà phải suy xét, phải thực hành, phải coi đúng như vậy không? Và đối với kinh, đối với luật có đúng không? Đó là tinh thần trong Kinh Du Hành, trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, đức Phật nói là phải coi, phải xét. Rồi trong Kinh Ka La Ma đức Phật nói phải soi xét, chứ tin quá rồi cuối cùng bị mê muội. Như vậy là giáo pháp tuyệt vời.

Đó là điều thứ nhất: Giáo pháp khéo được thuyết bởi đức Thế Tôn. Mình phải nhớ điều này thì mới niệm Pháp được chứ.

2. Thiết thực hiện tại: Điều này dễ hiểu đúng không quý vị? Có nghĩa là giáo pháp của Phật đem đến hiệu quả thấy rõ trước mắt, chứ không phải đợi, toàn hẹn đời sau. Nào là ráng tu cúng dường đi để đời sau giàu có, để được gì đó v.v…. Thôi khỏi! Quý vị nói như vậy là đạo Phật trở thành mê tín, lấy ví dụ ở đâu? Chính là bộ kinh lúc nãy Thiện Trang trích dẫn. Quý vị  biết chia tài sản ra xài: [để] thọ dụng này, [dùng cho] đầu tư kinh doanh, rồi bố thí cúng dường hay [làm] gì đó v.v… Làm một cách bình thường thôi, ngay đời này mình được giàu có, mà đời sau [được] lên cõi Trời, chứ đâu phải đợi đời sau đâu. Thiết thực hiện tại mà! [Mình được] kết quả rõ ràng trước mắt.

Và nếu điều đó khó quá thì thôi, nói [như] trong này nói là: như một người bị Tham, Sân, Si chi phối, suy nghĩ làm hại mình, hại cả người, hại cả hai bên, và cảm thấy khổ và lo lắng. Khi Tham, Sân, Si của họ được trừ diệt, thì không còn nghĩ hại mình, không hại người ta nữa, không hại cả hai và lúc đó không có khổ, không lo lắng nữa.

Quý vị thấy không? Bây giờ tại sao mình buồn, mình mệt? Tại vì mình tham, sân, si nhiều quá. Ví dụ như bây giờ mình sân quá nên mình khổ, có ai sân mà vui đâu, sân là khổ. Rồi mình bị nhiều Phiền não quá, vì mình lo lắng. Nếu mình hiểu, mình học giáo pháp rồi tự nhiên sẽ bớt Phiền não, bớt sân, bớt tham, bớt si. Khi bớt được một phần đó là đã sướng hơn một phần rồi, tức là ngay trong đời này mình được hiệu quả, được lợi ích rồi.

Quý vị có thấy hiệu quả lợi ích chưa? Thiện Trang thấy có đấy, nhiều người được hiệu quả lợi ích. Hồi xưa vô Đạo tràng mặt mày tối thui tối mò, buồn buồn, giống như gì Thiện Trang không nhớ ra ví dụ, nhưng mặt rất buồn. Nhưng sau khi học giáo pháp thì mặt mày tươi tỉnh, sáng bừng, vui. Vì sao? Vì ta đang đi trên con đường giải thoát giác ngộ, và ta đã bớt Phiền não. Bởi vì thế gian là giả, đời là giả tạm, và mình tu một thời gian phước báu lên ào ào. Nhiều người chỉ cần tu thọ Bát quan trai một thời gian thôi, ngày nào cũng tranh thủ rảnh là thọ, không được một ngày thì thọ nửa ngày, thọ một thời gian thôi là phước báu lên ào ào, đời sống sung sướng, thoải mái. Phước báu hiện tiền ngay, không đợi đến đời sau đâu. Còn đạo Phật mà quý vị nói đời sau, [đúng] là có kết quả. Nhưng chỉ nói đời sau không [thôi], thì đạo Phật trở thành mê tín.

Cho nên là phải hiểu nha! Nên ‘thiết thực hiện tại’ là ân đức của giáo pháp. Rồi khi quý vị biết được ví dụ như tính chất của Khổ – Không, Vô thường, Vô ngã rồi thì tự nhiên quý vị cởi mở được tâm mình. Hồi xưa không biết Khổ – Không, Vô thường, Vô ngã, nên khi có một người thân ra đi thì khóc sướt mướt, rồi buồn đau, v.v… Nhưng nếu người nào càng ngộ ra được đạo lý Khổ – Không, Vô thường, Vô ngã thì đối trước sanh ly tử biệt như vậy, mình vẫn bình yên, vẫn tự tại, vẫn bình thường. Và mai mốt thậm chí lúc mình chết, mình cũng rất vui vẻ, không sợ nữa. Bởi vì ta tu như thế, thì ta đi theo nghiệp như vậy. Cho nên tuyệt vời như vậy còn gì nữa! Học giáo pháp đề mục này [rất] tuyệt vời.

3. Vượt ngoài thời gian: là giáo pháp của Phật không chỉ có giá trị hữu hạn, mà giá trị của giáo pháp là vô hạn. Những gì đức Phật đã tuyên bố: Đời là khổ, sống chân chánh thực hành Thánh đạo sẽ diệt khổ, đoạn được khổ, thời xưa và nay và sau này vẫn đúng như vậy, không phải khác hơn.

Có nghĩa là sao? Không phải nói giáo lý Khổ – Không, Vô thường, Vô ngã hợp với thời xưa (thời Ấn Độ)…Nếu đem giáo pháp đó áp dụng tới bây giờ và cho đến tận đời vị lai thì vẫn hiệu quả. Giả sử nếu ngược thời gian được, cho quay về quá khứ mấy chục ngàn năm trước, thì giáo pháp đó vẫn [được áp dụng] như vậy.

Nhiều người nói làm gì có chuyện đó. Có chứ! Hồi xưa đức Phật Ca Diếp và những đức Phật khác vẫn truyền đạo đó thôi, vẫn là giáo pháp Khổ – Không, Vô thường, Vô ngã. [Thực hành theo giáo pháp này], quý vị luôn luôn được lợi ích. Cho nên giáo pháp này vượt ra ngoài thời gian, tức là không bị ảnh hưởng bởi thời gian. Thời gian không quan trọng, chỉ cần ứng dụng thôi.

Hoặc là đức Phật dạy gieo nhân xấu thì sẽ gặt quả xấu, tạo nhân tốt thì được quả tốt. Thì xưa đến nay và sau này vẫn vậy thôi. Đó là tính vượt thời gian của giáo pháp. Bây giờ làm một thời gian thấy liền đó mà, quý vị sống thiện một thời gian thì tự nhiên cuộc đời quý vị cũng tốt lên. Làm nhân gì một hồi cũng thấy nó trổ đó mà. Đạo lý đó thì trước đây, đời này, và đời sau này đều như vậy. Đó là tính thứ ba: Vượt khỏi thời gian.

4. Đến để mà thấy: câu này ở trong kinh, nghĩa là giáo pháp này đáng được công khai, mời gọi. Hãy đến để mà thấy pháp này. Vì giáo pháp này là chân lý đã được tìm thấy, và vì giáo pháp là thật sự thanh tịnh. Một lẽ nữa là giáo pháp này đến để thấy chân lý giải thoát, chứ không phải tín ngưỡng cúng bái, cầu nguyện, nên đến để mà thấy.

Nhớ nha! Phật giáo không phải tới quỳ lạy cúng bái, cúng bái quỳ lạy là hơi mê tín rồi đó. Mà Phật giáo là tới để mà học, để thực hành, để thấy. [Tức là] để tự mình trải nghiệm, tự mình thực hành, thì tự mình vô, mình thấy.

Giống như có người nói: Thầy Thiện Trang suốt ngày nói, có lợi ích gì đâu! Quý vị thấy, quý vị thực hành đi thì có được lợi ích. Còn ai thực hành được bao nhiêu thì được lợi ích được bấy nhiêu. Thiện Trang cũng may mắn thực hành được chút chút, cho nên Thiện Trang thấy được lợi ích bấy nhiêu đó. Và qua mỗi năm [Thiện Trang] thấy, phải cảm ơn Hòa thượng Tịnh Không trích dẫn câu nói của ngài Giáo sư Phương Đông Mỹ, một Triết học gia nổi tiếng tại Đài Loan: “Học Phật là sự hưởng thụ tối cao của đời người”. Tức là sự học Phật là sự hưởng thụ cao nhất của đời người. Đúng như vậy! Và chúng ta đã có. Cho nên câu nói này quá hay!

Mà muốn được như vậy thì hãy thực hành đi, hãy nghe và làm. Thiện Trang tin là những người ở đây đều là những người thực hành cả, ít nhiều gì cũng thực hành. Cũng biết là hay rồi nên mới nghe, chứ ai rảnh, có thời gian đâu mà ngồi nghe hai tiếng, hai tiếng rưỡi bao giờ. Thiện Trang thấy giảng pháp hai tiếng rưỡi có mấy người giảng đâu. Sau này Thiện Trang phát hiện ra, ngoài Thiện Trang có một người nữa, đó là ngài Tuệ Sỹ. Hòa thượng Tuệ Sỹ mỗi lần giảng cũng là hai tiếng rưỡi. [Thiện Trang] kêu hóa ra mình giảng cũng giống ngài. Ngài giảng cũng vậy, miệt mài không biết mệt, chỉ có người nghe thấy mệt thôi chứ người giảng không thấy mệt. Thiện Trang thấy mình hình như cũng ốm ốm giống ngài Tuệ Sỹ, dù sao mình cũng [được] an ủi một chút. Rồi thời gian [giảng pháp cũng giống ngài], ở cũng giống như [ngài], ở Đạo tràng do Cư sĩ làm. Đó là nhà của cô Phật tử cho ngài, ngài cũng ở thất. Cũng vậy, cuộc đời mình cũng giống giống ngài Tuệ Sỹ. Tất nhiên mình không có đạo hành bằng ngài, không có trí tuệ, không thông minh bằng ngài Tuệ Sỹ. [Đúng] là lực của ngài Tuệ Sỹ rất đáng nể.

Nên quý vị hãy đến để mà thấy, học Phật pháp hãy ứng dụng đi. Người ta nghe thời gian năm phút nghe không nổi, mà mình nghe hai tiếng rưỡi vẫn còn thấy an lạc. Giáo pháp nói thao thao bất tuyệt hai tiếng rưỡi thì đâu phải đơn giản, đúng không quý vị? Phải đến để mà thấy, chứ không thì mệt, ngán liền, sao mà nghe được. [Quý vị] cứ thực hành đi rồi thấy.

5. Hiệu năng hướng thượng: #Hiệu năng là hiệu quả, công năng, là khả năng hiệu quả; #hướng thượng tức là đi lên. Nghĩa là giáo pháp này hướng đạo, dẫn dắt con người đi đến thánh thiện, đưa con người đến giác ngộ giải thoát.

Điều này thì rõ ràng! [Giáo pháp của Phật] đưa một người từ bậc phàm sang bậc Thánh. Thiện Trang thích câu nói của Hòa thượng Tịnh Không, phải nói là trong đời của Hòa thượng Tịnh Không có để lại những câu nói rất hay. Giáo pháp của Phật là gì? Có bốn điều chuyển: Thứ nhất là ‘chuyển khổ đau thành an vui’, tức là chuyển một người khổ đau thành an vui; Thứ hai là ‘chuyển mê thành ngộ’; Rồi ‘chuyển phàm thành Thánh’, là chuyển phàm phu thành Thánh nhân. Còn một điều chuyển nữa Thiện Trang nhất thời quên mất, vì lâu rồi không đọc lại. Cứ nhớ là chuyển mê thành ngộ, chuyển khổ đau thành an vui, [chuyển ác thành thiện], chuyển phàm phu thành Thánh nhân. Điều quan trọng nhất là chuyển phàm phu thành Thánh nhân.

Giáo pháp Phật là vậy, trong Kinh Đại Bảo Tích đức Phật nói, thật ra không phải [chỉ] trong Kinh Đại Bảo Tích, mà kinh khác cũng nói, là: “Giống như nước của ngàn con sông xuôi về biển lớn, mỗi con sông có một vị khác nhau (nước của sông có vị khác nhau). Nhưng khi chảy vào biển lớn, thì chỉ có một vị, đó là vị mặn. Cũng vậy, giáo pháp của đức Như Lai (là giáo pháp của Ta), chỉ có một vị, đó là vị giải thoát”.

Dù các hạng người Bà-la-môn, thợ thuyền, Cư sĩ, nam nữ, trưởng giả hay bất cứ quan quân gì; dù là hạng người giàu sang, quyền quý, hay là nghèo khổ, v.v… từ người ăn xin cho đến người đại gia (trưởng giả)… Cuối cùng vào giáo pháp của Ta đều [nếm] một vị, đó là vị giải thoát khỏi khổ đau, giác ngộ giải thoát, và tương lai đều trở thành bậc Thánh. Cho nên đó là ‘hiệu năng hướng thượng’. Rất tuyệt vời đúng không quý vị! Có giáo pháp nào tuyệt vời như vậy nữa đâu. Chúng ta quá may mắn được gặp, nên rất tuyệt vời.

6. Trí giả tự chứng: #Trí giả tức là người trí; #tự chứng nghĩa là giáo pháp này cần được chứng nghiệm do chính mình, và phải là người có trí mới chứng nghiệm giáo pháp này được. Bởi không phải nhờ người khác tu tập giùm, đắc đạo quả giùm. Và giáo pháp này không phải là lĩnh vực dành cho kẻ ngu có thể chứng nghiệm. Câu cuối cùng nghe hơi buồn một chút, nhưng phải rõ ràng.

Quý vị muốn chứng nghiệm thì quý vị phải có trí mới hiểu được, không có trí thì không học nổi. Và điều này không ai tu tập giùm được cho quý vị, đắc đạo giùm cho quý vị. Không được đâu! Quý vị phải tự tu, tự chứng. Trong kinh nói là: “Ông tu ông đắc, bà tu bà đắc, không tu không đắc”. Nghĩa là ai ăn nấy no, ai tu nấy chứng. Quý vị muốn no thì quý vị tự ăn, không ai ăn cho mình được. [Ví dụ] nói: “Chồng ơi chồng, bữa nay vợ không có thời gian, chồng ăn giùm cho vợ đi”. Không có chuyện đó! Hoặc là: “Bữa nay con bận học quá, mẹ ăn giùm cho con để con no”. Không có chuyện đó!

Cũng vậy, Phật pháp là phải tự mình tu tập, tự mình cảm nhận, tự mình chứng. Và chứng quả là tự mình chứng mà thôi, không có liên quan người khác. Ai chứng đây? Ai tu được? Ai chiêm nghiệm được điều này? Chỉ người có trí mà thôi. Còn kẻ khờ quá, trong ngôn ngữ đây là kẻ ngu thì không chứng nghiệm được. Vì họ không hiểu, vô chùa lạy chút, cúng dường rồi đi về. Còn bảo vào đây nghe giảng pháp, thì họ nói: “Thôi thầy giảng gì đâu, nghe sao được”.

Ví dụ có những người vô, suốt ngày thích cúng bái, lễ lạy thôi, chứ người ta không muốn nghe pháp. Đó là thiếu trí, cho nên không chứng nghiệm được hiện tại. Và quý vị thấy là chúng ta áp dụng được một bài, [như] bài kinh lúc nãy thì mình cũng chứng nghiệm được. Thiện Trang thấy có những người rất tội, họ học buông xả nên giao hết tài sản cho con cho cháu, thôi mình buông xả rồi mà, không cần tích lũy đâu. Học Phật pháp như vậy, cuối cùng con cầm hết tiền bạc, rồi bắt đầu mình [phải] phụ thuộc nó. Nó muốn cho đi thì đi, muốn cho ở thì ở, khổ chưa! Tại vì không nghe bài kinh trên, là mình phải tích lũy, giữ lại tài sản cho mình phòng thân.

Cho nên học [Phật] đúng thì bớt khổ, còn học sai thì khổ. Bởi vì phụ thuộc kinh tế là phụ thuộc chính trị. Đời là vậy mà, không biết thì học. Đức Phật dạy nguyên tắc rõ ràng, mình không chịu học. Không phải không chịu học, mà tại vì mình không có duyên để học, mình học nhiều khi bị trật. Nên nhiều khi không phải những gì mình học đã là chân lý, nếu như mình chưa thâm nhập kinh tạng.

Thiện Trang khuyên quý vị: nếu quý vị không có thời gian nhiều thì thôi, chứ có thời gian cứ coi Kinh Nikaya, Kinh A Hàm trước đi, rồi từ từ coi lên kinh điển Đại thừa. Quý vị kết hợp lại là thấy kinh điển hay vô cùng, và mình học là đúng là tự tác, tự tri, tự chứng, đúng như đức Phật nói.

Cho nên đây là sáu đặc tính của giáo pháp hay là sáu ân đức của giáo pháp. Quý vị phải nhớ sáu ân đức này rồi thì quý vị mới tu tập được. Sau khi biết được sáu ân đức này, thì [sang] phần thứ hai là các bước tu tập.

B. Các bước tu tập:

1. Học hiểu và thông ý nghĩa sáu ân đức Pháp: Đoạn Thiện Trang giảng vừa rồi, quý vị phải hiểu thì mới niệm Pháp được, [còn] quý vị chưa hiểu [ý nghĩa sáu ân đức Pháp] thì làm sao niệm Pháp. Nên bây giờ mình niệm thế nào? [Pháp] tu niệm này đâu có giống kiểu niệm của chúng ta. Vô cứ đọc kinh cho nhiều để có phước. Sai lầm rồi đó, rõ ràng là sai rồi. Rồi ‘đọc thư thiên biến, kỳ nghĩa tự kiến’. Không phải! Đó là bên Đạo gia, Đạo nho, còn giáo pháp của Phật là phải học hiểu.

2. Đi đến chỗ yên tĩnh độc cư: Nghĩa là muốn tu [phải đến chỗ yên tĩnh độc cư]. Quý vị thấy tu Thiền chỉ lúc nào cũng phải độc cư, yên tĩnh, chứ không phải đông người. Bây giờ vô chùa đông quá trời, tu giống như khu công nghiệp thì không được.

3. Ngồi xuống và khởi niềm tin mãnh liệt đối với giáo pháp: [Quý vị] có chỗ rồi thì ráng ngồi xuống, và khởi niềm tin mãnh liệt để tạo hứng khởi. Mà muốn có niềm tin mãnh liệt thì quý vị phải hiểu sáu đức tính này, không hiểu sáu đức tính này thì [tu làm] sao được.

4. Bắt đầu niệm tưởng những đức tính đặc biệt của giáo pháp: Tức là tư duy về những điều này, bắt đầu nghĩ giáo pháo này khéo được thuyết bởi đức Thế Tôn, v.v… bắt đầu nhớ lại đoạn hồi nãy Thiện Trang nói. Rồi thiết thực trong hiện tại, vượt qua thời gian, giáo pháp này tuyệt vời lắm… Rồi đến để thấy, hiệu năng hướng thượng, người trí sẽ tự chứng. Cứ suy nghĩ ở trong đó, niệm miết, niệm hoài thì đắc Thiền. Và [việc niệm Pháp này] chỉ đắc tới Cận định (Vị đáo định) thôi, không đắc Sơ thiền. Tùy niệm pháp này chúng ta đã học ở phần trên rồi.

C. Kết quả:

1. Khi hành giả suy nghiệm những đức tính đặc biệt của Pháp như vậy thì ngay khi ấy, tâm vị ấy không bị tham sân si chi phối và tâm được an tịnh nhờ cảm hứng từ Pháp: Đúng! Chính xác! Vì chúng ta nhớ được sáu ân đức này và niệm sáu ân đức này, thì tự nhiên tâm hết tham, sân, si. Và tự nhiên an tịnh nhờ cảm hứng từ pháp, vì học đã quá, dễ chịu mà, đúng không? Điều đó đương nhiên.

2. Do tâm an tịnh nên chế ngự Triền cái, hỷ sanh, khinh an sanh, Chi thiền khởi lên: Do tâm an tịnh rồi nên tự nhiên chế ngự được Triền cái, hỷ sanh, khinh an cũng sanh, tức là được niềm vui và chế ngự được Triền cái. Quý vị còn nhớ Triền cái không? Triền cái có năm Triền cái là: Tham dục, Sân hận, Trạo hối, Thùy miên và Hoài nghi. Như vậy điều này là để trừ được Triền cái.

Ở đây quý vị đừng nghĩ là không liên quan gì tới chúng ta, ai bị mấy Triền cái thì quý vị tu đề mục này. Hồi xưa Thiện Trang không biết, bây giờ biết rồi. Ai buồn ngủ quá thì quý vị nhớ điều này, an tịnh lên là hết buồn ngủ, ai bị sân hận (buồn cũng là sân), quý vị niệm mấy ân đức của giáo pháp này thì hết buồn. Thấy mình đang sướng quá, đang học giáo pháp của đức Thế Tôn, mình đang được hưởng thụ lớn nhất của đời người, là vui liền, hết buồn, hết bực, hết sân, hết trạo cử, hối hận.

Tức là do mình tập trung tâm vào những điều này thì sao mà trạo cử, hối hận được, cho nên hết. Rồi mình cũng hết buồn ngủ, vì đang hưng phấn, đang đã mà, nên hết vật vờ. Và hết hoài nghi, vì mình nhớ đến những ân đức này, mình thấy nghiệm đúng mà, còn nghi ngờ gì nữa, nên hết nghi. Cho nên tu trì pháp này thì [sẽ] trừ được năm Triền cái.

Rồi các chi thiền khởi lên, [tức là] Sơ thiền có Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc, Định (Nhất hành). [Các chi thiền] khởi lên, tức là lúc đó những Tâm sở đó nổi lên, nên được lợi ích ngay.

3. Bởi do tâm bận niệm tưởng nhiều khía cạnh của những ân đức Pháp nên vị ấy chỉ đạt đến cận hành định (Vị đáo định), chứ không đắc được An chỉ định(các tầng Thiền).Tức là Sơ thiền trở đi thì mình không đạt được. Điều này giống như pháp tu bổ trợ thôi. Tu Thiền chỉ, mình muốn lên các tầng Thiền kia nhưng mình chưa lên được, thì mình tu điều này trước, để trừ Triền cái, và khởi chi thiền lên, rồi sau đó mình tu đề mục khác thì mới đắc Thiền. Cho nên tại sao mình phải tu điều này.

4. Chuyên tâm niệm tưởng đặc tính cao quý của giáo pháp, vì thấy những đức đặc biệt của Pháp nên vị ấy tôn trọng Pháp, tịnh tín Pháp, vị ấy sẽ được nhiều hạnh phúc, nhiếp phục được nỗi sợ hãi, có khả năng nhẫn khổ: Ai mà thiếu lòng tin, tôn trọng, thiếu hạnh phúc, sợ hãi, không chịu khổ được thì tu điều này. Tu điều này thì được hiệu quả, lợi ích liền.

 Quý vị thấy những điều này rất căn bản mà mình không học, mình cứ vô một câu Phật hiệu niệm tới cùng, một đề mục thiền nào đó tới cùng, [nhưng] tu hoài không đắc. Đắc gì nổi? Vì mình thiếu bước Gia hành. Điều này gọi là Gia hành, tức là gia công trước. Giống như quý vị muốn đổ bánh xèo, quý vị không chuẩn bị trước, đi chợ mua bột, mua gì đó, v.v… đủ các nguyên liệu để làm. Mà cứ vô, thôi bữa nay làm bánh xèo, thấy trong nhà có món gì đem ra làm bánh xèo, đem gạo xay ra làm bột, làm luôn, rồi có gì đem ra trộn một hồi, thì đố mà ra bánh xèo được. Điều gì cũng vậy, phải có sự chuẩn bị.

Đây là một phương pháp tu tập, đừng tưởng không liên quan. Quý vị thử coi, lúc nào quý vị buồn, Phiền não nhiều, v.v… thì quý vị đem sáu ân đức của giáo pháp này suy luận, nghe lại đoạn Thiện Trang chia sẻ, quý vị nhớ rồi suy luận thì [sẽ thấy] tuyệt vời quá, pháp Phật hay quá. Rồi bắt đầu nhớ tới những chuyện, như có bà đó bị mất sáu đứa con, bả buồn quá trời, giống như bị khùng, đi lang thang, rớt hết quần áo. Nhưng tới đức Phật thuyết cho một bài pháp thì bả tỉnh, bả [đi] về [nhà]. Sau [khi] đứa con thứ bảy của bà bị [chết], thì bà không khóc nữa, không còn [bi thương] nữa, thì ông chồng hỏi tại sao vậy. [Bả nói] là giờ bả hiểu là Vô thường, Vô ngã rồi, hiểu đứa con cũng không phải con của mình, nên chết đứa thứ bảy cũng vậy thôi. Ông đó nói hay quá, thôi để tôi tới, tôi nghe đức Phật thuyết pháp. [Nghe] xong ông xin đi xuất gia, đức Phật nói ba ngày sau ổng sẽ chứng quả A-la-hán. [Rồi] bà cũng xin đi xuất gia, người hầu cũng đi [xuất gia] luôn.

Mình nhớ câu chuyện đó, mình thấy là [giáo pháp của Phật] giúp chuyển khổ đau thành an vui, chuyển phàm thành Thánh. Cho nên giáo pháp của Phật rất tuyệt vời. Có rất nhiều câu chuyện như vậy, mình nhớ, mình niệm một hồi, thì mình thấy tuyệt vời quá, nên tự nhiên hết buồn ngủ, hết hôn trầm, hết tức giận, hết hoài nghi, v.v… Rồi từ đó mình tu vào đề mục của môn mình, như là tu niệm Phật hay tu Thiền Vipassana, thì mới dễ nhiếp phục được tâm. Quý vị nhớ như vậy nha.

Ví dụ như ở đây nói là mình sẽ tôn trọng Pháp, tịnh tín Pháp, giống như bữa trước mình [học], là bất hoại tịnh đối với Phật, bất hoại tịnh đối với Pháp, bất hoại tịnh đối với Tăng. Quý vị phải niệm như vậy thì quý vị mới bất hoại tịnh được, mới tịnh tính Pháp được. Rồi quý vị thấy được nhiều hạnh phúc, hạnh phúc ngay trong đời này.

Cho nên Thiện Trang nói không biết mấy người đồng tu, tu kiểu gì mà sao thấy không hạnh phúc, suốt ngày phiền não thì không học được gì hết. Suốt ngày than vãn, nếu đạo lý Vô thường lúc nào cũng nằm trên đầu mình, thì làm sao mình buồn được. Mình thấy đời vui, mình đang biết con đường giải thoát giác ngộ, chúng sanh ngoài kia mê quá trời. Họ ham đi làm kiếm tiền, rồi mai mốt chết cũng đâu giải quyết được gì. Còn ta ngồi đây, ngày ngày nghe pháp được an vui, an lạc như vậy, còn gì bằng nữa. Vậy mà buồn, buồn làm gì!

Cho nên nhiều khi không biết tại sao, học kiểu gì mà mới có một chút chuyện trong gia đình là buồn, người thân ra đi là buồn, vậy thì học giáo pháp để làm gì? Người ta chết cũng đâu phải chết thật đâu, người ta chỉ là đổi thân này qua thân khác. Giả sử có đọa lạc thì cũng đọa lạc có thời hạn. Đức Phật cũng thấy bao nhiêu chúng sanh đọa trong các đường dữ: Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh đó thôi, đức Phật cũng chờ họ, đợi khi nào có duyên họ ra thì độ. Sao mình còn tình chấp, anh em, bà con, vợ chồng. Cha mẹ từ nhiều đời nhiều kiếp, chứ đâu phải có một đời. Quý vị thấy có một đời, còn bao nhiêu đời kia người ta đọa trong ác đạo chờ mình [cứu kìa], nếu mình đắc đạo thì mình cứu.

Tầm nhìn của mình hạn hẹp thì không thể xuất thế gian được, cho nên quý vị khổ. Còn bây giờ mình học giáo pháp của Phật, mình thấy cả bầu trời vũ trụ bao la, có vô lượng chúng sanh vẫn đang chờ mình giác ngộ, vẫn đang chờ mình giúp họ. Nếu mình ngày nào ra khỏi sinh tử là mình giúp được họ, bởi vì chỉ có người biết bơi mới cứu được người chết đuối. Còn mình không biết bơi, thì vô đó cứu gì nổi. Cho nên là tự nhiên mình có khả năng chịu được nỗi sợ hãi. Quý vị tu hoài thì [sẽ] không sợ gì nữa, và có khả năng nhẫn được khổ. Nên nhớ đây là đề mục để trị những Phiền não rất tuyệt vời.

Thiện Trang đã giới thiệu xong đề mục tu Tùy niệm pháp theo Luận Thanh Tịnh Đạo. Bây giờ chúng ta sẽ giới thiệu pháp niệm Pháp theo Kinh Tăng Nhất A Hàm. Pháp niệm Pháp này ngắn thôi, không phải Thiền chỉ, Thiền gì thì không nói, nhưng ở trong Kinh Tăng Nhất A Hàm.

*Pháp Niệm Pháp Theo Kinh Tăng Nhất A Hàm

Tôi nghe như vầy: Một thời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ Đà (ở đây không để Thái tử Kỳ Đà và ông Cấp Cô Độc, nhưng chúng ta hiểu là vườn của ông Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà. Câu chuyện này Thiện Trang đã kể rất nhiều lần rồi), tại nước Xá Vệ. Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: “Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Đã tu hành một pháp rồi, liền có danh dự, thành tựu quả báo lớn, đủ cả các điều thiện, được vị cam lồ, đến chỗ Vô vi, liền được Thần thông, trừ các loạn tưởng, được quả Sa-môn, tự đến Niết-bàn. Những gì là một pháp? Là Niệm Pháp.”

Đoạn này quý vị thấy quen không? Quen! Tại sao quen? Hôm bữa mình giới thiệu pháp niệm Phật, lời văn cũng y chang như vầy, chỉ đổi cuối cùng là niệm Phật thôi. Cho nên quý vị thấy không? Nếu mình không học kinh, gặp người tu niệm Phật là họ quất câu này, và họ lấy bộ kinh xưng tán hay tán thán về niệm Phật họ truyền, họ nói về niệm Phật là nhất rồi đó. Bây giờ mình gặp người họ thích niệm Pháp, họ lấy đoạn kinh này, họ đưa ra niệm Pháp là số một, Phật tán thán nè. Nguy hiểm là ở chỗ đó, pháp nào Phật cũng tán thán hết, pháp nào cũng bình đẳng, và ai căn cơ nào thì theo [pháp] đó. Thậm chí tu, nhiều khi có thể kết hợp nữa v.v… đủ các kiểu. Nhưng nói chung là mình phải học kinh gốc, nếu không mỗi người dẫn [mỗi kiểu].

Cho nên Thiện Trang nói việc dẫn là nguy hiểm, dẫn một hồi đi đâu mất tiêu, còn mình theo kinh thì từ từ [sẽ rõ]. [Còn] Thiện Trang thì không dẫn quý vị đi đâu hết, Thiện Trang chỉ nói là Thiện Trang chia sẻ như vậy, quý vị tin được bao nhiêu thì quý vị hành bấy nhiêu. Quý vị tin được Thiện Trang thì quý vị hành theo Thiện Trang. Quý vị chưa tin thì cứ vô trong tạng Kinh A Hàm, Kinh Nikaya, những kinh Đại thừa, quý vị coi trong đó quý vị thực hành theo đó. Chứ đừng nghe thầy Thiện Trang, thầy Thiện Trang cũng chỉ là một phàm phu, chưa phải bậc như đức Phật được đâu. Chắc phải tu thêm mấy a-tăng-kỳ nữa, chắc cũng phải một, hai a-tăng kỳ [kiếp] nữa mới tới thành Phật được. Còn bây giờ mới sơ sơ thôi, cho nên quý vị thông cảm.

Đoạn này nói như vậy, nếu tu niệm Pháp quý vị sẽ được danh dự, tức là được tiếng tăm; [được] thành tựu quả báo lớn; đủ cả các điều thiện. Tức là khỏi đi từ thiện cũng đủ hết. Được vị cam lồ, cam lồ là thức uống của chư Thiên, ngọt lắm; rồi đến chỗ Vô vi là không sanh không diệt; được Thần thông là tu được Thần thông luôn; trừ các loạn tưởng, được quả Sa-môn: tức là chứng quả các vị Thánh; tự đến Niết-Bàn. Pháp đó là tu niệm Pháp. Và niệm Pháp như thế nào thì đoạn này nói:

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: “Thế nào là tu hành niệm Pháp, liền có danh dự, thành tựu quả báo lớn, đủ cả các điều thiện, được vị cam lồ, đến chỗ Vô vi, liền được Thần thông, trừ các loạn tưởng, được quả Sa-môn, tự đến Niết-bàn?”

Bấy giờ, các Tỳ-kheo bạch đức Thế Tôn rằng: “Gốc rễ của Pháp do Thế Tôn nói. Nguyện xin Thế Tôn vì các Tỳ-kheo nói diệu nghĩa này. Các Tỳ-kheo sau khi nghe từ Như Lai rồi sẽ thọ trì”.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: “Hãy lắng nghe, lắng nghe (tức là đế thính, đế thính), và suy nghĩ kỹ. Ta sẽ phân biệt rộng rãi cho các ông”.

Các Tỳ-kheo bạch rằng: “Kính vâng, Bạch Thế Tôn”.

Sau khi các Tỳ-kheo thọ giáo rồi, Thế Tôn bảo rằng (Đoạn này quan trọng): Tỳ-kheo chánh thân, chánh ý, ngồi kiết già, buộc niệm ở trước, không có tư tưởng nào khác, chuyên tinh niệm Pháp, trừ các dục ái, không còn trần lao, tâm khát ái vĩnh viễn không nổi lên nữa. Phàm Chánh pháp là ở nơi dục mà đạt đến vô dục, lìa các kiết phược và các bệnh của Triền cái. Pháp này giống như mùi các loại hương, không có tỳ vết của niệm loạn tưởng”.

Đoạn này Thiện Trang đã cố gắng sắp xếp, quý vị để ý Thiện Trang đưa bài ở trên lên trước, cho nên đoạn này giống như là bổ sung thêm. Tức là nếu lấy [đoạn] ở trên đọc xuống đây thì rõ ràng, chứ nếu không có đoạn ở trên, đoạn Tuỳ niệm Pháp của ngài Buddhaghosa (tức là ngài Phật Âm) ở trong Luận Thanh Tịnh Đạo, thì có lẽ mình sẽ không rõ, nhưng [Thiện Trang] đưa lên đó rồi cho nên ở đây nói rất rõ.

Chánh thân là ngồi ngay ngắn, người thẳng, v.v… gọi là Chánh thân. Chánh ý là ý nghĩ chân chánh, rồi ngồi kiết già. Thiện Trang thấy tất cả trong Kinh A Hàm, Kinh Nikaya đức Phật hay dạy ngồi kiết già lắm. Không hiểu sao đời nay có người nói ngồi kiết già là tu Thiền, [nói] tùm lum, nói chấp tướng… Thật ra chúng ta nên nghe theo đức Phật, đức Phật khuyên nên ngồi kiết già. Nếu không ngồi được thì ráng ngồi bán già, không thì ngồi chân trong chân ngoài, nhưng ngồi được kiết già là tốt nhất.

Buộc niệm ở trước, không có tư tưởng nào khác: tức là đừng nghĩ lung tung; chuyên tinh niệm Pháp, trừ các dục ái: là trừ được các ham dục, mong muốn ái dục; không còn trần lao: là không còn những nỗi khổ ở đời; tâm khát ái vĩnh viễn không nổi lên nữa. Phàm Chánh pháp là ở nơi dụcmà đạt đến vô dục: [tức là] mình đang ham muốn nhiều, mình niệm Chánh pháp một hồi sẽ đưa đến vô dục; lìa các kiết phược: chính là những Phiền não; và các bệnh của Triền cái. Pháp này giống như mùi các loại hương, không có tỳ vết của niệm loạn tưởng. [Đó là] mình tu như vậy.

Niệm Pháp là gì? Ở chỗ này không giải thích, theo Thiện Trang giải thích thôi nha, thì trong kinh đức Phật hay nói là: “Này các Tỳ-kheo, đây là cánh rừng, đây là gốc cây, đây là căn nhà trống, đây là cái thất trống. Các ông hãy vào đó mà ngồi kiết già, chánh thân ngay ngắn, suy nghĩ tư duy về Pháp”. Tức là mình nghĩ đến những điều mà đức Phật dạy, ví dụ lúc nãy mình nghĩ về công đức của Pháp, hay bữa nay mình nghe được đoạn nào nói Khổ – Không, Vô thường, Vô ngã, Bát chánh đạo, v.v… Nói chung mình nghe điều đó, mình ngồi suy nghĩ, mình tư duy nhiều về điều đó. Trong kinh đưa ra những ví dụ như vậy. Các Tỳ-kheo tư duy một hồi là đắc đạo A-la-hán, chứng Sơ quả Tu-đà-hoàn v.v… là nhờ tư duy như vậy.

Cho nên không phải ngồi đó niệm Pháp như vậy thì không được hiệu quả gì, mà được hiệu quả rất lớn. Nên không nhất định. Quý vị niệm Phật mà buồn ngủ, cứ niệm A Mi Đà Phật, A Di Đà Phật, hoặc thiền về đề mục gì đó, biết có chân tâm gì đó, v.v… mà buồn ngủ, thì quý vị tu qua các pháp nào thử xem. Mình trạch pháp, mình thử qua niệm Pháp xem, bữa nay nghe thầy Thiện Trang giới thiệu bộ kinh đó, hoặc mình đọc bộ kinh đó thấy hay chỗ này, hay chỗ kia, thì tư duy suy nghĩ. Đó là niệm Pháp. Chứ không phải bắt buộc một điều gì đó.

Thiện Trang nói với quý vị là mình phải khéo [tu] các đề mục, đề mục đức Phật đưa ra là cho người đó, [nhưng] chưa chắc hợp với mình, mình phải có đề mục nào đó phù hợp với mình. Gọi là đối trị Phiền não thì mình phải biết Phiền não đó từ gốc gác nào. Ví dụ như có người suốt ngày [có] nỗi khổ trong gia đình, suốt ngày chấp con, chấp chồng, chấp cha, chấp mẹ, v.v… suốt ngày lo nghĩ gia đình, thì đề mục quý vị phải tu đầu tiên là gì? Là hãy cố gắng niệm: gia đình là giả, gia đình là giả. Mỗi lần khởi lên [phiền não thì quán] gia đình là giả, không phải thật. Con cái là đến đầu thai, cha mẹ mình cũng chỉ có duyên vô đây thôi, đời này không riêng đời kia, v.v… cứ nghĩ như vậy. Quý vị phải niệm đề mục đó trước, để trừ Phiền não cho những người quá nặng về gia đình.

Còn người nào nặng về tình yêu thì đem quán bất tịnh ra, quán được không? Thiện Trang nói với quý vị quán bất tịnh chỉ đối với người lạ thôi, còn người mà quý vị thích rồi thì đố mà quán bất tịnh được. Cho nên chỉ quán Vô thường thôi, quán Vô thường đời là giả tạm, đời sống không được lâu, mai mốt lấy về khổ lắm, thế này thế kia… Quý vị đem những đề mục đó quán, thì đối với những người trẻ mới vượt qua được, vì người trẻ có thử thách lớn. Còn những người già thì không sao, mấy chục năm có gia đình họ chán rồi, bây giờ chỉ ghét ông chồng thôi. Nếu ghét ông chồng, ghét bà vợ quá thì quán: tất cả thế gian chỉ là giả thôi, ông chồng đối với ta chắc là oan gia, thôi nhường nhịn oan gia, bà vợ đó chắc là oan gia, thôi nhường nhịn, nhẫn nhục Ba-la-mật, v.v… Mỗi lần thấy ông chồng, bà vợ có gì đó, tức là nếu họ có một suy nghĩ gì đó nổi lên chọc mình, là mình phải nhường ngay. Phải nhường, phải nhường, phải nhường, phải nhẫn, phải nhẫn, phải nhẫn. Đề mục đấy gọi là người cho mình thi nhiều nhất, để mình cảnh giác với đề mục này. Đề mục nào yếu là mình đánh vô đề mục đó, mình niệm trước.

Thiện Trang chia sẻ cho quý vị nghe, hồi xưa Thiện Trang có giai đoạn ở tại gia, tu mấy năm, suốt ngày cứ ngủ là thấy sắc dục, tức là toàn thấy nữ sắc tới dụ, mà người nam thì có hiện tượng gọi là xuất tinh. Bị như vậy rất mệt, không sung sướng gì, mỗi lần dậy là mất công phu, tu không được, bị phiền não, loạn tâm. Cho nên phải tu làm sao? Nào bất tịnh quán… [Thiện Trang] quán miết mà không ăn thua gì hết. Sau này Thiện Trang nghĩ cách làm sao vượt qua được. Tức là Thiện Trang để ý, hồi đó ở ngoài đời Thiện Trang đi dạy, cứ bữa nào nhìn cô bé nào, nhìn cô học trò nào, hoặc nhìn cô giáo nào, cứ nhìn ai là tối hiện ra người đó. Cho nên kêu, bữa nay trước khi đi ngủ ta phải niệm người đó trước, tức là nếu cô bé đó hoặc cô đó hoặc ai đó bữa nay mình nhìn thấy trúng ai, thì chắc chắn tối nay hiện. Nếu hiện ra thì ngay lập tức ta phải nhớ ngay: Ta là người đã tu hành, ta đã giữ năm giới, không có chuyện đó, không phải vợ chồng, không có chuyện đó.

Cho nên khi [ngủ, người đó] xuất hiện, thì nhớ ra: “À, ta không phải vợ chồng, không có chuyện đó”. Rồi thắng được một lần, thì dần dần mới thắng trận quý vị ạ. Dần dần lần sau cứ nhớ, đổi đề mục: Cứ nhớ rằng ta đã thọ Ngũ giới rồi, vì ta đang độc thân, cho nên không có chuyện đó. Vậy vô trong giấc mơ, họ dụ cỡ nào dụ, cũng không ăn thua. Vì mình luôn luôn nhớ câu: “Ta đã giữ giới rồi, không phạm tà dâm nha”, cho nên trong giấc mơ cỡ nào thì cỡ cũng không bị [dụ]. Và đề mục đó qua, Thiện Trang nhớ là mất một năm. Ví dụ lần đầu là 10 giấc mơ như vậy, thì thua hết 9 trận rồi. Dần dần thua 8, thua 7, thua 6, thua 5, rồi dần dần chiến thắng 100%. Tức là chiến thắng hết 10 trận, thì phải là một năm trời.

Đó là một đề mục trước khi đi ngủ mình phải quán như vậy, phải tu như vậy. Chứ kêu niệm Quán Thế Âm Bồ-tát, khổ nỗi vô giấc mơ có Quán Thế Âm Bồ-tát không? Không có nha! Cho nên đề mục là do mình biết mình phiền não [điều] nào, thì mình tự đưa ra đề mục đó, để mình trừ đi các vọng tưởng, chứ không phải là mình cứ tu nhất nhất như vậy. Tất nhiên đức Phật đưa ra rất nhiều đề mục, nhưng không phải 100% đề mục đó có thể xài trong nhất định. Khi mình xài được rồi, hiệu quả rồi, thì mình quay trở lại đề mục chính, mình tu môn của mình. Tu hành phải khéo, giáo pháp của Phật 84.000 Pháp môn, vô lượng Pháp môn, tùy căn cơ, tùy mỗi người.

Cho nên có hai vị đó tới, được ngài Xá Lợi Phất và ngài Mục Kiền Liên dạy cho hai pháp tu. Một ông thì bảo hãy tu Bất tịnh quán, một ông thì bảo tu Sổ tức quán. Hai người đó tu miết mấy tháng trời mà không đắc đạo. Sau đó mới trình lên đức Phật, đức Phật nói: Tại vì hai ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên chỉ tu đề mục sai rồi. Ông này 500 đời được sanh trong gia đình quyền quý cao sang, nhà ông toàn cảnh đẹp và thanh tịnh. Bây giờ bắt ông quán bất tịnh, thì làm sao ông quán được. [Ông đó] 500 đời toàn ở nhà sang, nhà cao cửa rộng, cảnh đẹp, trang trí nào là tiểu cảnh, vườn Thiền đủ các kiểu, cổng trời cổng đất, cổng thiên đường gì đó đẹp quá, cho nên không thể nào quán bất tịnh được, không có chủng tử trong đó. Cho nên đức Phật nói: “Thôi, ra đây ta chỉ cho pháp quán”, trong Kinh Nikaya, Kinh Tiểu Bộ, đức Phật hoá ra một bông hoa sen [nói]: “Con hãy ngồi nhìn đóa hoa sen ở giữa hồ”.Bắt đầu đức Phật biến ra bông hoa đẹp như thế nào, từ từ chuyển, [ông đó] quán tịnh một hồi thì đắc quả A-la-hán.

Phương pháp [dành cho] người đó là quán tịnh, chứ không phải quán bất tịnh. Cho nên ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên dạy quán bất tịnh không thành. Mà hai vị Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên trình độ cỡ nào, tu bao lâu, chứng quả A-la-hán rồi, kinh Đại thừa gọi là Đại A-la-hán chứ đâu phải đơn giản, mà không thành.

Còn một vị kia thì hình như cũng được chỉ cho tu pháp Quán bất tịnh, nhưng cũng không thành luôn. Đức Phật hỏi ổng ở nhà làm gì?Ổng nói làm thợ rèn. [Đức Phật mới kêu]vô chỉ cho pháp Quán sổ tức (đếm hơi thở và theo dõi hơi thở). Ông đó quán một hồi thì đắc đạo luôn.

Quý vị thấy chưa? Phật chỉ phương pháp mới đúng, những vị A-la-hán như vậy vẫn có thể chỉ sai. Thời nay mình không có A-la-hán luôn, toàn phàm phu như cỡ Thiện Trang đây, thì xui nhiều hơn hên nha. Quý vị phải khéo thông minh, khéo biết bệnh của mình để uống thuốc cho đúng. Thiện Trang chia sẻ như vậy đã rõ ràng.

Đoạn cuối cùng là:

Đó gọi là Tỳ-kheo tu hành niệm Pháp, liền có danh dự, thành tựu quả báo lớn, đủ cả các điều thiện, được vị cam lồ, đến chỗ Vô vi, liền được Thần thông, trừ các loạn tưởng, được quả Sa-môn, tự đến Niết-bàn. Cho nên, này các Tỳ-kheo, luôn phải tư duy không rời niệm Pháp, liền sẽ được những thứ công đức thiện này. Như vậy, các Tỳ-kheo, hãy học điều này”.

Quý vị nhớ: luôn phải tư duy không rời niệm Pháp, cho nên hằng ngày quý vị niệm Phật cũng được, quý vị niệm Thiền cũng được, quý vị cố gắng tu niệm Pháp, tư duy trong pháp không rời. Hình như Thiện Trang tu đúng môn này, Thiện Trang luôn tư duy không rời niệm Pháp, đi đâu, thấy gì cũng quán hết. Đi ra bờ sông thấy con chim bị trôi trên dòng nước, nó không bay hay sao đó, nó cứ trôi trôi trên dòng nước. Mình thấy: “À, nó nhắc cho mình thấy đời là vô thường, đời là dòng nghiệp”. Có con chim bay ngược theo dòng được, còn con đó không bay mà cứ bị trôi theo dòng nước. Tu hành cũng giống vậy, không tiến thì lùi. Không tiến lên, không bay được lên ra khỏi dòng nghiệp thì [sẽ bị] dòng nghiệp kéo, là tuột luôn.

Đó là tư duy niệm Pháp hằng ngày, thấy lá cây cũng là vô thường, nhà cửa vô thường, bữa ăn là vô thường. Khổ – Không, Vô thường, thường trực Tam Bảo hiện tiền luôn ở trong tâm ta, thì chúc mừng quý vị, ngày nào đó quý vị sẽ giác ngộ thôi, không sớm thì muộn, chắc chắn giác ngộ, tức là chắc chắn vào dòng Hiền, dòng Thánh. Không vào được Sơ quả Tu-đà-hoàn thì cũng vào dòng Hiền (dòng Hiền là Tứ gia hạnh rồi), quý vị vào dòng đó là ngon rồi, trước sau gì cũng sẽ chứng quả thôi. Nếu ai tin Tịnh Độ nữa thì giống như “hổ mọc thêm sừng (cánh)”. Bởi vì quý vị không vãng sanh thì quý vị cũng không sợ nữa, trước sau gì cũng ở trong dòng Thánh. Nếu quý vị vào được Nhẫn vị trong Tứ gia hạnh, thì chúc mừng quý vị, quý vị không đọa ác đạo nữa rồi.

Còn hôm bữa chúng ta học là Tùy tín hành, Tùy pháp hành đó. Thiện Trang đã xem lại Tùy pháp hành rồi, Tùy pháp hành cũng giống như Tùy tín hành, nếu giữa đời không bị chết, tức là nếu họ có đủ thời gian để tu, thì họ sẽ chứng Sơ quả Tu-đà-hoàn.

Tại sao Tùy tín hành khác Tùy pháp hành? Tùy tín hành là người nhập vào đạo bằng niềm tin. Còn Tùy pháp hành là những người có trí tuệ, họ hiểu pháp, cho nên họ hành theo pháp. Quý vị không có trí tuệ sâu xa, thì quý vị dùng theo con đường Tùy tín hành. Còn quý vị có trí tuệ tốt thì quý vị sẽ đi theo con đường Tùy pháp hành. Do mình hiểu nên mình thực hành, gọi là Tùy pháp hành. Con đường nào một hồi cũng vào Sơ quả, nếu như đủ thời gian. Đủ thời gian là vào Sơ quả trong đời này. Còn nếu không đủ thì cũng không sao, cứ từ từ, cũng sắp vào rồi. Cho nên những địa vị đó trên những địa vị kia, nên nếu mình tính ra cũng vào dòng Hiền, nên yên tâm, không sợ nữa.

Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

(Kinh Số 2 – Phẩm Quảng Diễn Thứ 3 – Kinh Tăng Nhất A Hàm).

Cũng hết thời gian rồi, Thiện Trang định giảng Luận Câu Xá nhưng quá giờ rồi. Hẹn quý vị bữa khác. Mời quý vị chúng ta cùng hồi hướng.

“Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ

Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn

Pháp môn vô lượng thệ nguyện học

Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”.

“Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử cùng chúng sanh

Đều trọn thành Phật đạo”.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Nam Mô A Mi Đà Phật!