Responsive Menu
Add more content here...

Luận Câu Xá – Phẩm 1 – Buổi 24

Giảng Ký A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận (A Tỳ Đàm – Vi Diệu Pháp – Duy Thức Pháp Tướng) – Tạo Luận: Tôn giả Thế Thân – Dịch và Chú Thích: Tam tạng Pháp sư Huyền Trang – Bài 24: Phẩm 1 – Phân Biệt Giới – Buổi 24.

Giảng giải: Thầy Thích Thiện Trang

Giảng ngày: 02.01.2025

Phát trực tiếp trên Kênh YouTube Thích Thiện Trang

https://www.youtube.com/watch?v=qEC_E-QjVG8

mạng xã hội Facebook, Fanpage Thích Thiện Trang:

https://www.facebook.com/suthaythichthientrang

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Nam Mô A Mi Đà Phật!

​Kính chào toàn thể quý vị đồng tu! Hôm nay là thứ Tư, chúng ta tiếp tục gặp nhau trong loạt bài chia sẻ về bộ giảng A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận, tên ngắn gọn là Luận Câu Xá. Trong bộ này, chúng ta vừa học cả Nam truyền lẫn Bắc truyền, vừa học phần Vi Diệu Pháp và cả phần kinh tạng. Thiện Trang cố gắng cung cấp bộ đầy đủ theo thứ tự, [để] làm sao chúng ta học tới đâu thì dùng được tới đó. Chứ nếu chúng ta học theo Luận Câu Xá thôi, thì có lẽ là phải mất rất nhiều thời gian, gần cuối của bộ Luận này thì chúng ta mới được lợi ích lớn. Còn đa số quý vị đồng tu đều là những người tu học lâu năm rồi, thì không nhất thiết phải chờ đợi lâu như thế, chúng ta học tới đâu thì mình xài được tới đó.

Giống như cái cây bây giờ, người ta đem trồng là ra trái liền, chúng ta cũng vậy, cũng ăn được chút chút để cảm được vị ngọt của pháp thì chúng ta sẽ thích hơn. Mới đầu vào nào là Phân biệt giới, Phân biệt nghiệp, học nghiệp của chúng sanh, rồi các cảnh giới đọa lạc, cảnh giới thiên đường (cõi Trời) v.v… thì mất thời gian. Một hồi mới học được tới vị trí của các quả vị Thánh, rồi tu tập làm sao v.v… đó là nội dung của bộ Luận Câu Xá. Nhưng Thiện Trang cố gắng đưa [thêm] phần kinh tạng bên Nam truyền là phần A Tỳ Đàm, chúng ta học tới đâu đều có hiệu quả. Và mỗi bữa thì Thiện Trang cung cấp mỗi phần kiến thức, để quý vị học và hành ngay, từ những người học sâu xa cho đến những người học cơ bản.

Ví dụ như hôm bữa Thiện Trang [đã] cung cấp cho quý vị về 27 địa vị Hiền Thánh gồm: Hữu học thì có 18, Vô học thì có 9. Mỗi lần mình học chút chút thì mình hiểu, và sau này học vào bộ Luận Câu Xá thì quý vị thấy con đường tu hành, đường giải thoát của mình rất dễ, không phải khó như hồi xưa nữa. Tại vì hồi xưa mình cứ bám vào Sơ quả Tu-đà-hoàn thì khó quá. Bây giờ mình biết rằng dưới Sơ quả Tu-đà-hoàn còn có những địa vị dễ hơn rất nhiều, và mình hoàn toàn có thể tu tập được, như vậy chúng ta cũng có thể yên tâm. Và dưới Sơ quả Tu-đà-hoàn còn có những địa vị đảm bảo chúng ta không bị rơi vào ba đường ác: Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, thì chúng ta rất vui mừng. Đó là lý do của bộ này, nên chúng ta cố gắng học.

          Phần đầu tiên hôm nay Thiện Trang xin giới thiệu một nền tảng căn bản, trích từ kinh tạng. Nội dung đầu tiên là:

Làm Sao Để Mang Lại Lợi Ích Cho Quyến Thuộc?

          Hôm nay là năm mới, ngày 01.01.2025, đa số mọi người chúng ta đều mong muốn lợi ích cho quyến thuộc của mình, những người thân của mình, Thiện Trang xin trích dẫn kinh như sau:

Tôi nghe như vầy: Một thời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ Đà, nước Xá Vệ. (Vườn của ông Trưởng giả Cấp Cô Độc, cây của Thái tử Kỳ Đà và nước Xá vệ).

Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: “Nếu có chúng sanh muốn khởi từ tâm, có ý chí tín, vâng phục phụng sự cha mẹ, anh em, tông tộc, gia thất, bè bạn tri thức, nên an lập những người này trên ba xứ khiến không di động. Những gì là ba? Như vậy năm mới dương lịch, chúng ta cũng mong muốn người thân quyến thuộc, như cha mẹ, anh em rồi bà con, bạn bè tri thức v.v… mà mình thương tưởng, muốn giúp ích cho họ thì làm sao đây? Đức Phật dạy cho chúng ta là hãy giúp những người đó không di động trên ba xứ (chỗ) tức là ba điều. Những gì là ba? Khiến họ phát tâm hoan hỷ đối với Như Lai, tâm không di động rằng: ‘Ngài là Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, hiệu Phật Thế Tôn’.

Thực ra đây là giống Quy y Phật, tức là hãy giúp cho những người thân của mình phát tâm hoan hỉ đối với đức Phật (đức Như Lai), bằng cách là hãy tin vào 10 danh hiệu của đức Như Lai. Giúp cho họ hiểu được 10 danh hiệu này, thì tự nhiên họ hoan hỉ. Đó là điều thứ nhất.

 Lại khiến họ phát tâm hoan hỷ nơi Chánh pháp rằng: ‘Pháp được Như Lai khéo nói, vô ngại, cực kỳ vi diệu, do đây mà thành quả; pháp như vậy được học và biết bởi người trí’. Như vậy đây là Quy y Pháp, mình hãy giúp cho họ phát tâm hoan hỉ nơi Chánh pháp. Mà muốn biết như vậy, thì hãy [nói] cho họ rằng: ‘Pháp được đức Như Lai khéo nói, vô ngại, cực kỳ vi diệu, do đây mà thành quả; pháp như vậy được học và biết bởi người trí’. Cho nên quý vị giới thiệu cho họ là học Phật pháp không phải dễ đâu, Phật pháp là [phải] người có trí mới học được, còn ai không có trí thì không học được. Người ta nghe như vậy cũng tò mò, kêu: “Vậy tôi ngu à? Đâu có! Tôi cũng phải thông minh chút chứ, có trí chứ”. Có trí thì học, còn ai không học được là không có trí. Đó là một bài kích thích cho người ta, gọi là khích tướng, chúng ta có thể hiểu được [ý nghĩa] ở đây là như vậy. Rất hay! Đây là Quy y Pháp.

Cũng khiến họ phát tâm hoan hỷ nơi Thánh chúng này rằng: ‘Thánh Chúng của Như Lai tất cả đều hòa hợp, không có lẫn lộn, thành tựu pháp, thành tựu giới, thành tựu Tam-muội, thành tựu trí huệ, thành tựu giải thoát, thành tựu giải thoát kiến huệ. Thánh chúng ấy gồm có bốn đôi tám hạng, mười hai Hiền Thánh. Đây là Thánh Chúng của Như Lai, đáng kính, đáng quí. Đây là ruộng phước vô lượng thế gian’.

Ở đây điều thứ ba này thì quý vị giới thiệu cho kỹ, bắt đầu vô điều thứ ba là chúng sanh thời nay khó chấp nhận, cũng khiến cho họ, tức là gia đình mình, người thân của mình hoan hỷ nơi Thánh chúng. Mình tưởng Thánh chúng là Tỳ-kheo Tăng, nhưng không phải, đây là Thánh chúng của Như Lai, tất cả đều hòa hợp, không có lẫn lộn, thành tựu pháp, thành tựu giới, thành tựu Tam-muội (thành tựu định), thành tựu trí huệ, thành tựu giải thoát, rồi thành tựu giải thoát tri kiến. Cuối cùng là thành tựu giải thoát kiến huệ tức là giải thoát tri kiến.

Nghe như vậy thì chắc chắn là chúng sanh không phục, nhưng quý vị nên nhớ: Quy y Tăng ở đây không phải là phàm phu Tăng, mà đây là ‘Thánh chúng ấy gồm bốn đôi tám hạng’. Bốn đôi tám hạng này chúng ta học rồi, gồm có: Tu-đà-hoàn hướng, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm hướng, Tư-đà-hàm, A-na-hàm hướng, A-na-hàm, A-la-hán hướng, A-la-hán. Bốn đôi tám cặp từ Sơ quả đến Tứ quả và cả hướng nữa. Không chỉ như vậy mà còn xếp vào 12 Hiền Thánh nữa. 12 Hiền Thánh ở trong này không có chú giải, mình cũng không biết, nhưng Thiện Trang nghĩ là ở trong phần Gia hạnh, Gia hạnh cũng xếp vào Hiền. Như vậy thì tính thêm bốn Gia hạnh nữa thành ra là 12, tám [địa vị] này cộng với Tứ gia hạnh nữa là 12. Do không có chú giải nên không biết, đó là Thiện Trang đoán như vậy.

Tứ gia hạnh cũng được xếp vào dòng Hiền nha quý vị, mai mốt chúng ta học vào phần Tứ gia hạnh ở bên Luận Câu Xá thì chúng ta thấy dễ dàng lắm, không phải đến nỗi khó khăn. Vào hạng đó mình tu pháp rất đơn giản thôi, ví dụ như chúng ta tu Bất tịnh quán, tu Quán sổ tức, tu mấy [đề mục] Ngũ đình Tâm quán đơn giản thôi, mình tu khá khá chút là vào được. Học Phật pháp quan trọng là giáo pháp Tứ đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo; và Khổ – Không, Vô thường, Vô ngã. Nếu chúng ta học thời gian lâu, thì tự nhiên bừng sáng trong tâm, mình trồng được căn lành, đó là mình vào dòng Hiền. Có thể vào dòng Hiền là bắt đầu vô Tứ gia hạnh, hễ vào Tứ gia hạnh là có ghi nhận thành tựu trong Phật pháp.

 Quý vị hiểu không? Vô Noãn vị, Nhẫn vị, vô Đảnh vị hoặc Thế đệ Nhất vị, là coi như đã ghi tên thành tựu trong Phật pháp. Còn đằng trước thì chưa, đằng trước thì tu có rồi mất, có rồi mất, không chắc. Nhưng đã vào [Tứ gia hạnh] thì dễ rồi, và từ đó bước lên thêm chút nữa là lên các địa vị như Sơ quả Tu-đà-hoàn được. Những địa vị đằng trước dễ hơn rất nhiều.

Cho nên chúng ta học rõ rồi, chúng ta không sợ đường tu hành nhiều kiếp dài xa. Tại vì để thành Phật thì dài xa thật, nghe nói đến ba đại a-tăng-kỳ kiếp hay chúng ta học ở đây là 80 a-tăng-kỳ kiếp hay là 40 a-tăng-kỳ kiếp hay là 20 a-tăng-kỳ kiếp đối với từng chủng tánh, thì xa quá, [nghe như vậy mình] ngán đúng không? Nhưng thực tế để đắc đạo ra khỏi sanh tử, A-la-hán hoặc là Bích-chi-phật (Độc giác Phật) thì không khó như vậy, chúng ta tu không mất nhiều thời gian như vậy. Và để ghi nhận vào những địa vị Hiền Thánh này, thôi chúng ta nói Hiền đi, Tứ gia hạnh lại càng dễ nữa.

Cho nên Phật pháp không khó đâu, khó là không có ai dạy mình, khó là mình không đi đúng đường. Còn nếu như chúng ta đi đúng đường thì chắc chắn chúng ta sẽ được ghi nhận kết quả, và chúng ta sẽ sớm ngày ra khỏi dòng sanh tử. Chỉ có những ai phát tâm thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì con đường đó thực sự dài xa. Bởi vì để bước lên tới địa vị Phật thì lâu thật. Nhưng nếu quý vị chỉ phát tâm là con thành Độc giác, Thanh văn thì nhanh lắm. Và yên tâm, nếu quý vị đi con đường kia, dù đi thế nào thì theo tinh thần là quý vị cũng sẽ lên tới đó, cũng sẽ có chứng quả, chứ không phải là không chứng gì. Chẳng qua là không chứng quả A-la-hán, không nhập Niết-Bàn thôi. Không chịu nhập Niết-Bàn thôi, chứ không phải là mình không chứng gì, mình vẫn chứng. Cho nên ở đây chúng ta phải hiểu rõ ràng thì chúng ta tu hành mới được.

Như vậy ở đây là hãy giúp cho [người thân của mình nhớ tới] Thánh chúng. [Quý vị] nhớ, phải tính vào đây, ít nhất là 12 Hiền Thánh thì mới là Quy y Tăng đúng nghĩa, chứ không phải dễ đâu. Đây là Thánh Chúng của Như Lai, đáng kính, đáng quý. Đây là ruộng phước của vô lượng của thế gian. (Quý vị thấy không? Phải cỡ đó mới là ruộng phước vô lượng của thế gian. Còn phàm phu Tăng, Tỳ-kheo bình thường thì chưa đến mức độ đó). Các Tỳ-kheo nào học ba xứ nầy sẽ thành tựu quả báo lớn.        

“Này các Tỳ-kheo, hãy học tập điều nầy như vậy”.

Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết pháp, hoan hỷ phụng hành.

(Kinh Số 4 – Phẩm Tam Bảo Thứ 21 – Chương Ba Pháp – Kinh Tăng Nhất A Hàm).

 Quý vị hãy cố gắng giúp cho người thân hoặc cho chính mình, làm sao có niềm tin hoan hỷ đối với đức Phật, đối với Pháp của Phật, và đối với Thánh chúng. Thánh chúng ở đây không phải là phàm phu Tăng, mà toàn là bậc Hiền tăng và Thánh tăng. Còn Hiền Thánh thế nào thì mai mốt mình học vào Phẩm thứ sáu của Luận Câu Xá này sẽ có.

Điều thứ hai mà Thiện Trang giới thiệu cho quý vị, là pháp căn bản: Thế nào là Tam tự Quy y. Bữa nay chúng ta học lại điều căn bản [về] Quy y. Nhiều khi mình học cao siêu quá, mình không biết Quy y Phật là gì? Quy y Pháp là gì? Quy y Tăng là gì? Làm sao để quy y? Hôm nay Thiện Trang giới thiệu cho quý vị luôn, đây là kiến thức căn bản, thỉnh thoảng chúng ta bổ sung những nền tảng này. Thiện Trang cũng từ trích từ kinh thôi, chứ không có tự mình nói.

Thế Nào Là Tam Tự Quy Y?

Tôi nghe như vầy: Một thời đức Phật trú tại vườn [ông] Cấp Cô Độc, rừng cây [Thái tử] Kỳ Đà, nước Xá Vệ. Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: “Tự quy có ba đức. Những gì là ba? Đó là quy y Phật là đức thứ nhất; quy y Pháp là đức thứ hai; quy y Tăng là đức thứ ba. Tại vì có người thắc mắc là mình có được tự quy hay không? Và mình quy y như thế nào? Hôm nay xin giới thiệu luôn cho quý vị tinh thần ở trong kinh. Chúng ta có kinh để làm ấn chứng.

Sao gọi là đức Quy y Phật? (Chúng ta có Quy y Phật, Quy y Pháp, Quy y Tăng, bây giờ sao gọi là đức (đức tính) quy y Phật?) Trong các loại chúng sanh hai chân, bốn chân, nhiều chân; hoặc có sắc, không sắc; hoặc có tưởng, không tưởng; cho đến trên trời Nê-Duy-Tiên, trong đó, Như Lai là bậc tối tôn, tối thượng không ai có thể sánh bằng. Đoạn này Thiện Trang xin giải thích trước đã, trong các loại hai chân, bốn chân, nhiều chân (điều này thì chúng ta dễ hiểu), thì loài hai chân là loài tôn quý trong các loài nhiều chân. Hoặc các loài có sắc (là có hình) như chúng ta hoặc là cõi trời Sắc giới, [còn] không sắc là cõi trời Vô sắc giới. Hoặc có tưởng là cõi trời bình thường, còn không tưởng là trời Vô Tưởng; cho đến trời Nê-Duy-Tiên. Trời Lê-Duy-Tiên chính là tên gọi khác của trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Trong đó Như Lai là bậc tối tôn, tối thượng, không ai có thể sánh bằng, [đây là] khẳng định đức Phật là bậc [tôn quý] nhất, hơn tất cả chúng sanh.

Như từ bò được sữa; từ sữa được lạc; từ lạc được tô, từ tô được đề-hồ. (Tức là ở đây kể ra mấy món ngon từ sữa của Ấn Độ, như từ bò được sữa, từ sữa được lạc, từ lạc được tô, từ tô được đề-hồ.Trong chú thích có ghi luôn: Nhũ, lạc, tô, đề-hồ là năm vị, sữa đông đặc là lạc, bơ sống là sanh tô, bơ lỏng rồi bơ đặc là đề-hồ. Có năm vị, nhưng người ta tóm tắt có bốn thôi. Bây giờ món ăn quý nhất mà người ta làm từ sữa là phomai, yaourt các kiểu chiết xuất từ sữa. Song ở trong đó đề-hồ lại tối tôn, tối thượng, không gì có thể sánh bằng. Đây cũng như vậy, trong các loại chúng sanh hai chân, bốn chân, nhiều chân; hoặc có sắc, không sắc; hoặc có tưởng, không tưởng; cho đến trên Nê-Duy-Tiên thiên (Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ) trong đó, Như Lai là bậc tối tôn, tối thượng, không ai có thể sánh bằng. Những chúng sanh nào phụng thờ Phật, đó gọi là phụng thờ đức thứ nhất. Đã được đức thứ nhất, liền hưởng phước trời ngay trong loài người. Đây gọi là đức thứ nhất.

Quý vị thấy Quy y Phật chỉ đơn giản vậy thôi. Phụng thờ Phật tức là mình vâng làm theo những lời Phật dạy, thì được đức thứ nhất. Và quý vị nhớ là chúng ta liền hưởng phước trời ngay trong loài người, nghe đã không? Mình tu chưa gì hết, vô một cái là được hưởng phước trời ngay trong loài người, nếu quy y Phật thôi. Quy y Phật nghĩa là nương tựa, phụng thờ, tức là mình phải làm theo những gì phật dạy. Chứ không phải mình lên lấy chứng điệp Quy y xong rồi về, nói là Quy y Phật, kiểu đó không phải. Ở đây nói là mình phải phụng thờ mà, phụng thờ nghĩa là vâng làm theo những điều Phật dạy. Như vậy thì quý vị liền hưởng phước trời ngay trong loài người, chứ không phải chờ đến đời sau, ngay bây giờ liền được lợi ích, cho nên Quy y Phật là quan trọng. Bây giờ là Quy y Pháp:

“Sao gọi là đức tự quy y Pháp? Các pháp Hữu lậu, Vô lậu, Hữu vi, Vô vi, vô dục, vô nhiễm, diệt tận, Niết-Bàn; trong các pháp đó, pháp Niết-Bàn là tối tôn, tối thượng, không pháp nào có thể sánh bằng. Như từ bò được sữa; từ sữa được lạc; từ lạc được tô; từ tô được đề-hồ. Song trong đó đề-hồ lại là tối tôn, tối thượng, không gì có thể sánh bằng. Đây cũng như vậy, các pháp Hữu lậu, Vô lậu, Hữu vi, Vô vi, vô dục, vô nhiễm, diệt tận, Niết-Bàn. Song ở trong các pháp đó, pháp Niết-Bàn là tối tôn tối thượng, không pháp nào có thể sánh bằng. Chúng sanh nào phụng thờ Pháp, đó gọi là phụng thờ đức thứ nhất. Đã được đức thứ nhất, liền hưởng phước trời ở ngay trong loài người. Đây gọi là đức thứ nhất. Ở đây phải nói là đức thứ hai thì đúng hơn, không biết tại sao lại ghi là đức thứ nhất. Nhưng chúng ta cứ hiểu đức thứ nhất là đức đệ nhất cũng được.

Ở đây nói là Quy y Pháp. Bây giờ nhiều người không biết Quy y Pháp là gì. Thật ra ở đây chúng ta thấy rõ ràng, Quy y Pháp, pháp nào là quy y? Đó là pháp Niết-Bàn. Có nghĩa là chúng ta nương tựa để tu để chứng Niết-Bàn, ít nhất là A-la-hán. Đó mới là Quy y Pháp. Chứ còn mình nói quy y, lên chùa thọ trì bộ kinh, suốt ngày cầu an, cầu siêu, rồi gì đó v.v… Mình quy y đó thì đâu phải là Quy y Pháp. Quy y Pháp là mình nương tựa pháp tu giải thoát rốt ráo, ít nhất chúng ta cũng học pháp Tứ đế và Khổ – Không, Vô thường, Vô ngã, nghe đi nghe lại.

Thật ra nhiều người kêu: Thầy ơi, sao tu khó quá! Sơ quả Tu-đà-hoàn phá ba Kiết sử: Thân kiến, Giới cấm thủ, Nghi. Vậy tu như thế nào? Thiện Trang nói thật ra không khó, khó ở chỗ là tại mình không biết. Vậy biết điều gì? Thật ra quý vị cứ nắm căn bản trong tất cả kinh, hầu như đức Phật nói yếu tố đầu tiên đó là hãy biết rằng thế gian này là Khổ, Vô thường, Vô ngã. Có một số chỗ nói Khổ – Không, Vô thường, Vô ngã, thêm chữ ‘Không’ nữa. Thật ra chữ Không là bổ sung cho chữ Khổ mà thôi, tức là tất cả rồi cuối cùng cũng không có gì hết, để khỏi chấp tướng. Khổ – Không, Vô thường, Vô ngã, quý vị cứ nắm giùm bốn chữ đó, thì dần dần quý vị chán thế gian này, rồi quý vị có tâm xuất ly, quý vị cũng muốn chứng Niết-Bàn thôi.

Tâm như vậy đó, quý vị cứ học tới học lui, ngày ngày quý vị cứ nhớ như vậy, rồi ngày nào đó bùng ra. Ví dụ như quý vị thấy đời khổ thiệt, đúng là [như] thầy Thiện Trang nói: Đức Phật nói đời là khổ, sanh ra [cuộc] sống này đã khổ. Ăn rồi đi làm, mệt mỏi, bệnh tật v.v… Yêu nhau mà phải chia lìa, ghét nhau mà phải gặp hoài. Rồi thân thể lúc khỏe, lúc mạnh, bị người ta chửi, rồi không có thời gian v.v… dần dần mình chán thế gian. Cứ mỗi lần quý vị nhận ra được điều đó, là một lần quý vị ngộ một chút. Và sự ngộ đó lúc nào đó đủ mạnh, thì tự nhiên ba Kiết sử: Thân kiến, Giới cấm thủ và Nghi tự động tiêu trừ một chút. Dần dần đủ mạnh thì xin chúc mừng quý vị, quý vị vào Sơ quả Tu-đà-hoàn mà không cần phải qua một điều gì nữa cả.

Cho nên bí quyết là buông. Làm sao buông? Là hiểu như vậy và mình học giáo pháp nhiều. Mình cứ học tới học lui, học xuôi học ngược, học dần dần rồi mình tin Phật, mình tin pháp, tin Tăng chúng (Hiền, Thánh, Tăng). Mình tin đến độ đủ mạnh như vậy, mình tin con đường tu tập rõ ràng rồi, v.v… thì mình phá được Nghi. Và mình đã tin rồi thì tất nhiên mình sẽ không bao giờ theo những pháp thế gian cả. Thế gian họ dạy mình làm thế này [thế kia], [nhưng] mình theo Phật thôi. Cho nên mình phá được Giới cấm thủ.

Giới cấm thủ là giữ những điều cố chấp, những điều gì mà theo thế gian hoặc những pháp ngoại đạo, v.v… Những gì không đúng với Chánh pháp, không đúng với Phật pháp thì mình [không] theo. Dần dần do học nhiều thì tự nhiên [mình] phá được [Giới cấm thủ]. Phá Giới cấm thủ là dễ nhất, phá Nghi là dễ nhì, còn Thân kiến thì khó hơn. Quý vị sẽ phá được Thân kiến qua nghe pháp nhiều, mình tư duy nhiều, một hồi [mình] cũng chán, rồi cũng vô được [Sơ quả]. Tại vì sao? Thật ra Thân kiến nói Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, khó đúng không quý vị?

Sắc là thân thể ta. Bây giờ đa số quý vị thật ra cũng đã phá một phần Thân kiến, đó là Sắc. Vì đa số bây giờ mình biết chết không phải là hết, mình biết chết là thân thể này chết thôi, ta có thân thể mới rồi. Ai cũng nghĩ đời sau mình sẽ có một thân thể nào đó, người thì mong là lên Tây Phương Cực Lạc, có người mong lên cõi Trời, có người thì mong đời sau làm người nữa v.v… Mỗi người đã định hình rằng mình sẽ có một thân khác, có nghĩa là mình không có chấp thân này là ta rồi đó. Sắc thân này không chấp. Như vậy là mình đã bỏ qua được Sắc, coi như một phần Thân kiến đã phá được đúng không ạ? Và mình chấp nhận chết, còn hồi xưa mình sợ lắm, mình nghĩ thân này chết là mình chết luôn, bây giờ thì hết rồi. Vậy là phá được một điều.

Tiếp theo là Thọ. Thọ là những cảm nhận, có ba thọ là: Thọ lạc, thọ khổ và không lạc không khổ. Ví dụ như bây giờ mình đang ăn, mình thấy ngon nên nói: “Tôi đang ăn ngon, tôi đang ăn ngon”. Nhưng do mình học giáo pháp nhiều quá, mình nhớ ra là không phải tôi ăn ngon, mà thức ăn hôm nay ngon, miệng mình thấy ngon v.v… có nhiều yếu tố. Mình cảm nhận thấy, mình biết những điều này cũng không thật là của ta, chỉ là đang cảm nhận từng món ăn đang ngon, đồ ăn ngon, miệng đang ngon, thời tiết đang [tốt] v.v… Dần dần mình không có dính vào đó nữa, tức là mình không cho là mình đang cảm nhận hoàn toàn. Mà mình chỉ là ta đang cảm nhận thế thôi, còn nó không phải là mình. [Nhờ vào] điều đó, dần dần mình phá được Thân kiến về Thọ, rồi Tưởng, Hành, Thức, từ từ bay hết.

Nên điều đó là do quá trình tu tập. Và nếu như quý vị ngộ pháp một cái là bỏ được nhanh. Như vậy dần dần phá được Thân kiến và tự nhiên vô Sơ quả Tu-đà-hoàn thôi. Giả sử không phá được điều đó thì cũng do tu tập lâu ngày, quý vị cũng vô được trong Tứ gia hạnh, hoặc là những địa vị thấp hơn nữa. Chúng ta thấy hôm bữa mình học rất nhiều, từ từ mình học [thì sẽ] biết.

Cho nên con đường để chứng đạo không khó, nếu như mình biết đường đi. Giống như mình đi con đường từ Hà Nội tới Thành phố Hồ Chí Minh, mặc dù xa xôi như thế, nhưng quý vị có đi thì chắc chắn một ngày là quý vị tiến thêm được [một đoạn]. Quý vị đi qua 30 cây số rồi, ngày hôm sau quý vị đi thêm được 30 cây số nữa. Bây giờ Thiện Trang lấy ví dụ thực tế, là đoàn của Sư Minh Tuệ bây giờ đang đi từ Việt Nam qua Lào, qua Thái Lan, rồi một hồi đi tới Ấn Độ. Chúng ta thấy bây giờ hình như là hơn nửa tháng rồi, [các vị ấy] đã đi được một đoạn rồi, tới Thái Lan rồi đó. Có nghĩa là con đường chứng đạo giống như đi từ Việt Nam tới Ấn Độ mà đi bộ vậy đó, nghĩ thì xa xôi vậy, nhưng có đi thì có đến.

Cũng vậy, quá trình tu tập của chúng ta, cứ tu mỗi ngày, nghe pháp mỗi ngày, suy nghĩ, tư duy về pháp rồi dần dần tự nhiên phá đi tất cả, rồi dần dần thành tựu thôi. Bí quyết chỉ có vậy! Miễn là kiên trì, kiên nhẫn, say sưa ở trong đó, chứ đừng có bi quan. Mà mình phải đi đúng đường nha! Đi lạc đường đó là rớt vào Giới cấm thủ, là thôi, thua rồi, không được rồi. Hoặc là đi lạc đường là trật mất hướng Chánh đạo. Tức là thay vì mình đi qua Ấn Độ, mà một hồi mình đi ra biển Đông thì chịu thua, không có cách nào. Cũng vậy, mình phải học pháp cho đúng để mình tu cho chính xác. Muốn học pháp cho đúng thì chúng ta phải coi trong kinh thôi.

Ở đây Thiện Trang đang nói tới chỗ Quy y Pháp, cũng được liền hưởng phước trời ở ngay trong loài người. Cho nên mới tu tập [là] sướng rồi. Quý vị thấy không ạ? Ai tu một thời gian là tự nhiên phước báo lên. Thiện Trang nói là Chánh pháp mình dễ thấy lắm, tu tập một thời gian là tự nhiên phước báo mình lên ào ào. Ai cũng thấy đời yên bình hơn, dễ chịu hơn rồi, v.v… Nhưng chỉ cần ai lệch khỏi Chánh pháp thôi, thì cũng thấy rõ ràng lắm, cũng nhanh đó. Đi trật [Chánh pháp] là bắt đầu phiền não nhiều hơn, rồi đủ thứ chuyện này kia, rõ ràng lắm. Cho nên trong nhà Phật, tu đúng [thì] phước hiện tiền. Đây là đức Phật nói: ‘Liền hưởng phước trời (phước của cõi Trời) ở ngay trong trong loài người’. Đó Quy y Phật, Quy y Pháp [được] như thế. Bây giờ đến Quy y Tăng.

“Sao gọi là đức tự quy y Thánh chúng? (Tức là thay vì Quy y Tăng, chúng ta nói Tăng nên bị nhầm là phàm phu Tăng, ở đây nói là Thánh chúng (Tăng là Hiền Thánh Tăng đó)). Trong các đại chúng, đại tụ tập, trong các loại hữu hình, trong các chúng sanh, trong các chúng ấy, Chúng Tăng của Như Lai là tối tôn, tối thượng, không chúng nào có thể sánh bằng. (Trong các đại chúng, ví dụ như bây giờ mình nói đại chúng của một đàn bò, đàn linh dương, sư tử v.v… hoặc là đàn người, rồi đại tụ tập tức là đông lắm. Trong các loài hữu hình, các loài chúng sanh, trong các chúng ấy thì ai tốt nhất? Chúng Thánh Tăng của Như Lai là tối tôn, tối thượng, không chúng nào có thể sánh bằng).

Như từ bò được sữa; từ sữa được lạc; từ lạc được tô; từ tô được đề-hồ. Song trong đó đề-hồ lại là tối tôn, tối thượng, không gì có thể sánh bằng. Đây cũng như vậy, trong các đại chúng, đại tụ tập, trong các loại hữu hình, trong các chúng sanh trong các chúng ấy, Chúng Tăng của Như Lai là tối tôn, tối thượng, không chúng nào có thể sánh bằng. Đó gọi là phụng thờ đức thứ nhất. Đã được đức thứ nhất, liền hưởng phước trời trong loài người.

Quý vị thấy Quy y Tăng là phải quy y như vậy, phụng theo, chứ không phải Quy y Tăng như chúng ta bây giờ (chúng ta là phàm phu Tăng). Quý vị quy y Tăng này là Hiền Thánh Tăng, và liền được phước trời ngay trong loài người.

Đây gọi là đức thứ nhất.

Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ này:

Thứ nhất tôn thờ Phật,

Tối tôn không gì hơn.

Kế lại tôn thờ Pháp

Vô dục, không dính trước.

Kính phụng Chúng Hiền Thánh,

Là ruộng phước tốt nhất.

Quý vị thấy tôn thờ Phật, chúng ta quy y Phật – Lưỡng túc tôn; Quy y Pháp – Ly dục tôn. Ly dục là vô dục, không dính trước. Quy y Tăng – Chúng trung tôn, đó là bậc ruộng phước tối thắng, tốt nhất.

Người đó trí bậc nhất,

Thọ phước ở trước hết.

Nếu ở trong trời người,

Thủ lãnh trong các chúng.

Ngồi trên chỗ vi diệu;

Tự nhiên thọ cam lồ;

Thân mặc y bảy báu;

Được người đời tôn kính.

Giới thành tựu bậc nhất;

Các căn không khuyết mất;

Cũng được biển trí huệ;

Dần đến Niết-bàn giới.

Ai có ba quy nầy

Đến đạo cũng không khó.

Quý vị thấy đã không ạ? Ở trên này là nói những phước báo: là mình được ở trong cõi Người, được thủ lãnh trong chúng, rồi được chỗ vi diệu, được sự mát mẻ như uống nước cam lồ ở cõi Trời Đao Lợi vậy đó. Rồi mình được y bảy báo tức là mình được nhiều tài sản v.v… Rồi mình được tôn kính; các căn không khuyết mất tức là mình không bị những bệnh, sau này (đời sau) mình không bị khuyết căn, không bị tật nguyền. Rồi mình được trí huệ, cuối cùng là mình dần đến Niết-Bàn giới. Từ từ rồi cũng đến Niết-Bàn. Ai có ba quy y này: Quy y Phật, Quy y Pháp, Quy y Tăng thì đến đạo cũng không khó, chắc chắn đạt đạo. Đạt đạo là chứng quả giải thoát. Quý vị thấy sướng không? Học mới một chút thôi mà lợi ích lớn vô cùng. Trong Phật pháp là được lợi ích lắm.

Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết pháp, hoan hỷ phụng hành.

(Kinh Số 1 – Phẩm Tam Bảo Thứ 27 – Chương Ba Pháp – Kinh Tăng Nhất A Hàm).

Đó là trong kinh. Như vậy bữa nay chúng ta mới biết việc Quy y có lợi ích như thế nào đúng không? Bữa nay biết Quy y rồi đó. Bây giờ Thiện Trang cũng xin giới thiệu đoạn này, hồi bữa có giới thiệu rồi nhưng xin giới thiệu lại, bởi vì có liên quan một mạch luôn.

Giữ Giới Và Tam Quy Y

Phàm pháp Ưu-bà-tắc, giới cấm có năm (tức là nói về pháp của vị Ưu-bà-tắc, thì giới cấm có năm). Trong đó có thể giữ một giới, hai giới, ba giới, bốn giới cho đến năm giới thảy đều phải giữ. (Có nghĩa là quý vị có năm giới đối với người Ưu-bà-tắc: Một là không sát sanh; Hai là không trộm cắp; Ba là không tà dâm; Bốn là không nói dối; Năm là không uống rượu. Đức Phật không bắt quý vị giữ hết tất cả. [Đức Phật] nói là có thể giữ một giới, hai giới, ba giới, bốn giới cho đến năm giới. Quý vị giữ hết cũng được).

Nên hỏi lại ba lần, người có thể giữ thì khiến cho họ giữ. (Quý vị thấy đây là khi truyền giới đó, phải hỏi ba lần. Điều này thì Thiện Trang trước giờ không có hỏi ba lần, sau này chắc phải hỏi ba lần. Nhưng thôi khỏi đi, hỏi một lần thôi được rồi. Ai cũng nói giữ được: “A Di Đà Phật!” Hoặc “Mô Phật, giữ được!” Hoặc “Vâng! Con giữ được”. Cho nên là thôi, tóm lại là không cần hỏi ba lần. Đây là cách truyền giới trong kinh).

Nếu Ưu-bà-tắc nào phạm vào một giới rồi, thân hoại mạng chung sẽ sinh vào Địa ngục. (Quý vị nhớ nha! Không thọ thì thôi, thọ thì phải giữ, tại vì phạm một giới thôi là thân hoại mạng chung sẽ sinh vào Địa ngục. Quý vị nghe như vậy sợ chưa? Tất nhiên là quý vị phải học bộ Tại Gia Luật Yếu Quảng Tập, [vì] chưa hẳn là như vậy, khi phạm không phải là giới trọng, [thì] quý vị vẫn có thể sám hối được. Thậm chí phạm giới trọng, thì quý vị mất giới, không được thọ nữa thôi, chứ còn quý vị sám hối thì không có đọa Địa ngục đâu. Vì tội đó là Giá tội, chứ không phải Tánh tội, Tánh tội thì mới sợ.

Quý vị phải hiểu Tánh tội là gì, Giá tội là gì, chứ đừng có hoang mang, nghe nói vậy rồi: Thôi chết rồi, con lỡ phạm một giới rồi, con đọa Địa ngục. Không phải! Quý vị sám hối đúng cách thì không đọa Địa ngục, nên nhớ vậy. Tại vì đức Phật không ép để tự nhiên mình đọa Địa ngục đâu, đức Phật chỉ mong mình lên cao thôi. Còn quý vị muốn hiểu rõ ràng thì quý vị nghe bộ Tại Gia Luật Yếu Quảng Tập mà Thiện Trang đã chia sẻ. Đó là nếu phạm một giới thì thân hoại mạng chung sẽ sinh vào Địa ngục).

Nếu Ưu-bà-tắc nào vâng giữ chỉ một giới, sẽ được sinh về cõi lành, trên trời, huống chi là giữ hai, ba, bốn, năm giới. (Nhớ nha! Sướng không! Có nghĩa là quý vị không thọ hết năm giới, quý vị giữ một giới thôi cũng được, sẽ sinh vào cõi lành, trên trời, huống chi là mình giữ hai, ba, bốn, năm giới. Cho nên giữ được năm giới thì quá tuyệt vời. Thiện Trang khuyên quý vị nên giữ năm giới. Mình giữ mà giữ phải trọn vẹn cơ, chứ [đừng] giữ kiểu nửa chừng, ví dụ như con thọ giới không sát sanh [mà mình sát sanh]. Ở trong kinh quý vị coi có những vị tới bạch đức Phật, là họ giữ một giới thôi, nhưng họ giữ là giữ chắc chứ không phải như mình. Mình nói con thọ giới, con giữ giới không nói dối, nhưng con nói dối suốt ngày là không được. Hoặc là mình thọ giới không sát sanh, nhưng thỉnh thoảng mình vẫn giết chúng sanh, ví dụ như làm thịt con già, làm thịt con [này], con kia v.v… Đó là không được.

Cho nên quý vị thấy đa số đồng tu, thật ra chúng ta cũng giữ được khá nhiều mà. Cho nên giữ được nhiều thì quý vị có phước báo, sau này sanh về ít nhất là cõi lành, cõi Trời, cho nên rất lợi ích. Đây là toàn lời trong kinh nha).

Người kia sau khi nhận lãnh những lời dạy từ Phật rồi, đảnh lễ sát chân Phật và lui đi. Người kia đi chưa xa, bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: Từ nay về sau, cho phép trao năm giới và ba tự quy cho Ưu-bà-tắc. (Tất nhiên là có Ưu-bà-di nữa, Ưu-bà-tắc là nam Cư sĩ, Ưu-bà-di là nữ Cư sĩ). Nếu Tỳ-kheo nào khi muốn trao giới cho Thanh tín nam nữ, dạy họ để trống cánh tay, chắp tay, bảo xưng tên họ, nguyện quy y Phật, Pháp, chúng Tăng ba lần (tức là cũng đọc vậy thôi, lễ [thọ Tam quy Ngũ giới] rất là đơn giản).

Sau khi bảo xưng tên họ quy y Phật, Pháp, chúng Tăng rồi, lại tự xưng: ‘Nay con đã quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tỳ-kheo Tăng. Như Phật Thích Ca Văn lần đầu tiên đã cho năm trăm khách buôn thọ ba tự quy, con nguyện suốt đời không giết, không trộm, không dâm, không dối, không uống rượu’. Nếu ai giữ một giới thì còn lại bốn giới; nếu giữ hai giới thì còn lại ba giới; nếu giữ ba giới thì còn lại hai giới; nếu giữ bốn giới thì còn lại một giới; nếu giữ năm giới, đó là người giữ đầy đủ.

Ở đây đức Phật không bắt quý vị giữ hết. Quý vị cứ thọ Tam quy cũng được, quý vị giữ một giới cũng được, thì đọc một giới thôi. Nếu [giữ] hai giới thì đọc hai giới, [giữ] ba giới thì đọc ba giới, [giữ] bốn giới đọc bốn giới, hoặc đọc hết năm giới cũng được. Như vậy đây là lễ Quy y và Truyền giới, rất là đơn giản.

Hồi xưa thì Thiện Trang theo nghi thức của chư Tổ. Nhưng quý vị coi kĩ nha, nghi thức này rất ngắn gọn, đâu có gì khó khăn. Và ở đây nói cũng nên thọ với Tỳ-kheo, tất nhiên là trường hợp không có Tỳ-kheo tăng, Tỳ-kheo ni, thậm chí không có Sa-di (trong luật nói cho phép thọ [Tam quy Ngũ giới] với Sa-di), thì mình có thể phát nguyện tự quy y cũng được, tự giữ giới cũng được, nhưng là trong trường hợp nào đó thôi. Còn mình nên tôn trọng, mình nên quy y và thọ giới trước một người xuất gia.

Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

(Trích từ Kinh Số 1 – Phẩm Tam Bảo Thứ 27 – Chương Ba Pháp – Kinh Tăng Nhất A Hàm).

Quý vị thấy bữa nay là mình biết quy y rồi đúng không? Đây là những kiến thức căn bản, lâu lâu phải dạy lại những kiến thức căn bản, chứ không mình học A Tỳ Đàm cao quá. Nhưng rồi từ từ cũng bay lên trên học cao thôi.

Bây giờ Thiện Trang cung cấp thêm một nền tảng căn bản nữa, đó là:

Làm Sao Để Được Quỷ Thần Bảo Vệ

Quý vị thích được bảo vệ đúng không? Ở đây đức Phật dạy luôn.

Đức Phật bảo Tỳ-kheo: “Tất cả chỗ ở như nhà cửa của mọi người đều có quỷ thần, không có chỗ nào là không có cả. (Nhớ nha! Nhiều người sợ ma lắm, thì xin lỗi quý vị, ở đâu cũng có [quỷ thần] hết. Đức Phật nói chỗ nào cũng có, nên đừng có sợ. Tại sao? Ở đây nói tiếp). Tất cả mọi đường sá, mọi ngã tư, hàng thịt, chợ búa, cùng bãi tha ma đều có quỷ thần, không có chỗ nào là không có cả. (Cho nên có nhiều người sợ ma, đi đến nơi nào sợ ma, ra nghĩa địa sợ ma v.v… Xin lỗi! Ở đâu cũng có hết, nên khỏi phải sợ, quỷ thần chứ không phải ma). Phàm các loài quỷ thần đều tùy thuộc vào chỗ nương náu mà có tên. Như nếu nương vào người thì gọi là người. (Quý vị thấy không? Ở trong người cũng có quỷ thần luôn). Nương vào thôn thì gọi là thôn; nương vào thành thì gọi là thành; nương vào nước thì gọi là nước; nương vào đất thì gọi là đất (có thần nước, thần đất, [thần] thôn, thành, đủ các kiểu thần). Nương vào núi thì gọi là núi (là thần núi).Nương vào sông thì gọi là sông”.

Quý vị thấy không ạ? Ở đâu cũng có [quỷ thần] hết, cho nên là đừng có sợ. Học rồi, hiểu rồi, lúc nào cũng có [quỷ thần]. Cho nên là đừng nghĩ là mình đang ở một mình, không có ai. Thiện Trang thì sợ điều này lắm, tại vì Thiện Trang biết lúc nào cũng có các ngài quỷ thần xung quanh mình, chư thiên, chư thần hộ pháp, không biết [có không] nhưng ít nhất cũng có quỷ thần ở bên cạnh. Cho nên mình làm gì mà có lỗi, thì cảm thấy rất là xấu hổ. Cho nên lỡ làm gì [sai] thì nhớ sám hối nha, quý vị lỡ có sai sót lỡ gì thì chúng ta nhớ sám hối, xin các ngài từ bi. Tại vì các ngài thấy hết đó, chứ mình đừng có tưởng mình làm gì không ai thấy.

Đức Phật bảo Tỳ-kheo: “Tất cả mọi loại cây cối dù là cực nhỏ như trục xe cũng đều có quỷ thần nương tựa, không có chỗ nào là không có. Quý vị nhớ nha, cây cối cực nhỏ như trục xe (tức là cỏ v.v…) thôi cũng có quỷ thần, chứ không phải [chỉ] cây [cao mới có]. Hồi xưa Thiện Trang nghe nói cây cao [tầm] đầu người trở lên thì mới có quỷ thần. Không phải [vậy]. Trong kinh đã nói là cực nhỏ như trục xe. Trục xe thì nhỏ lắm rồi, nhỏ xíu à, trục xe mà. Ở đây đức Phật dùng từ cực nhỏ rồi. Còn Thiện Trang nhớ là ở trên cỏ cũng có hết, chứ đừng tưởng là không có. Cho nên đừng có nghĩ mình làm chuyện gì mờ ám không ai biết. Biết hết đó!

Tất cả mọi người nam, người nữ khi mới bắt đầu sinh ra đều có quỷ thần theo bên ủng hộ. (Quý vị nghe điều này mừng chưa? Tức là khi mình mới sanh ra đều có quỷ thần đi theo bên mình để ủng hộ. Cho nên yên tâm đi, có người bảo hộ hết). Nếu khi nào họ chết thì quỷ thần giữ gìn họ, thu nhiếp tinh khí của họ, nên người này sẽ chết ngay” (Khi nào mình hết mạng thì họ giúp mình thu nhiếp tinh khí, để mình chết luôn, cũng là giúp đó).

Đức Phật bảo Tỳ-kheo: “Giả như có Phạm chí ngoại đạo hỏi rằng: ‘Chư hiền, nếu như tất cả nam nữ khi bắt đầu sinh ra đều có quỷ thần theo bên giữ gìn, ủng hộ; khi người kia sắp chết, quỷ thần giữ gìn ủng hộ kia sẽ thu nhiếp tinh khí họ, thì người này chết. Nhưng tại sao người hiện nay lại có người bị quỷ thần quấy nhiễu, có người không bị quỷ thần quấy nhiễu?’

 Cho nên Thiện Trang nói là hầu như những vấn đề gì, chỉ cần chịu khó coi trong kinh là có hết. Bây giờ có những người tại sao bị quỷ thần quấy nhiễu, bị phá, rồi mơ mộng thấy quỷ, rồi bị ma nhập, v.v… điên điên khùng khùng. Tại sao có người thì không bị, có người sao khỏe vậy? Vấn đề nằm ở đâu? Đức Phật biết đời sau sẽ có câu hỏi này, cho nên đức Phật tự đưa ra luôn giả thuyết. Giả sử có người hỏi như vậy thì bây giờ trả lời sao.

Quý vị thấy không? Đâu cần kiếm ở đâu đâu, Thiện Trang nói chịu khó học giùm trong kinh, duyệt hết kinh tạng. Không cần kinh nào nhiều, Kinh A Hàm và Kinh Nikaya thôi là có đầy đủ hết rồi. Tất nhiên chúng ta coi thêm những kinh khác nữa thì càng tốt, tất cả đều có rồi. Mình nghe trong kinh là chắc ăn, chứ còn bây giờ mỗi người nói một nẻo. Giống như hồi xưa Thiện Trang nói cây cao từ đầu người trở lên thì mới có quỷ thần ở,nhưng sau này Thiện trang coi trong kinh thấy ở đâu cũng có hết, cây cực nhỏ, tức là rất nhỏ, như trục xe thôi cũng có. Cho nên đừng có vội tin, nếu không có căn cứ theo kinh.

Nếu có người hỏi câu này (tức là hỏi tại sao có người bị quỷ thần quấy nhiễu, có người không?), thì các ngươi nên trả lời cho họ rằng: ‘Người thế gian hành động phi pháp, tà kiến điên đảo, tạo ra mười nghiệp ác, những người như vậy, trong trăm hay nghìn mới có một thần theo bảo hộ thôi. (Có nghĩa là những người thế gian này tại sao không có ai bảo hộ, thần ở đâu? Tại vì họ tạo mười nghiệp ác, họ tà kiến điên đảo, hành động phi pháp, cho nên những người như vậy, trăm nghìn người thì có một vị thần theo bảo hộ thôi. Tức là số đông người như vậy, mà có một vị thần theo thôi. Đức Phật lấy ví dụ:) Giống như đàn bò, đàn dê, trong trăm hay nghìn con cũng chỉ có một người chăn giữ. Ở đây cũng như vậy, vì hành động phi pháp, tà kiến điên đảo, tạo ra mười nghiệp ác, nên những người như vậy, trong trăm hay nghìn người mới có một thần bảo hộ thôi.

Quý vị thấy không? Tại sao mình bị quỷ thần quấy nhiễu, tại sao mình bị điên, bị khùng v.v… Là do mình làm phi pháp, hành động không đúng với Chánh pháp, làm [những việc] Tà kiến. Tà kiến tức là mình chấp sai, điều đó không phải là Chánh pháp mà mình chấp vô đó, điên đảo. Rồi tạo mười ác nghiệp, là sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, nói lưỡi đôi chiều, nói lời thô ác, nói lời thêu dệt; rồi Tham, Sân, và Tà kiến (có chỗ nói là Si, trong mười ác nghiệp thì có chỗ nói là Tà kiến). Như vậy cả trăm nghìn người mà có một vị thần theo hộ vệ thôi. Giống như một đàn bò, đàn dê đông trăm nghìn con mà chỉ có một người chăn, thì làm sao họ chăm sóc, lo hết cho được. Cho nên bị [vấn đề] thôi! Không có ai bảo vệ mình, bây giờ có một vị thần, mà một trăm người, một ngàn người, cả xóm cả làng đó, thậm chí cả xã đó, đông như vậy, mà cho một vị thần tới bảo vệ, thì làm sao bảo vệ hết nổi, nên bị nạn này nạn kia thôi. Còn mình muốn được bảo vệ, thì đức Phật cung cấp luôn:

Nếu có người nào tu hành pháp thiện, chánh kiến, chánh tín, chánh hạnh, đầy đủ mười nghiệp thiện, chỉ một người như vậy, thì cũng có trăm nghìn thần bảo hộ rồi.

Quý vị nghe đã không? Ai tu hành pháp thiện, chúng ta có tu hành pháp thiện không? Có, đúng không? Có Chánh kiến, ai học Phật mới có Chánh kiến chứ; rồi Chánh tín là niềm tin chính xác; Chánh hạnh là mình làm những việc làm đúng với Chánh pháp; đầy đủ mười nghiệp thiện. Chỉ một người như vậy, thì cũng có trăm nghìn thần bảo hộ rồi. Cho nên yên tâm, mình tu tốt, một người thôi, một mình mình thôi, thì cũng có trăm nghìn thần tới bảo hộ, thấy đã không?

Vậy tại sao mình làm ngược lại, chúng sanh ngày càng điên đảo, toàn thích không có thần bảo vệ. Còn nếu quý vị tu tốt, thì có rất nhiều [thần bảo vệ], một người thôi mà có trăm nghìn thần tới bảo vệ, chưa nói giữ giới gì hết, mới làm sơ sơ thôi. Quý vị thấy đã không? Cho nên không học những bộ kinh này, mình không biết thì thiệt thòi lắm, chúng sanh ở thế gian thiệt thòi.

Vì sao thiệt thòi? Họ cứ nghĩ, họ làm việc đó được lợi ích, chiếm được tài sản, được lợi ích v.v… Nhưng thực tế họ không biết là chư thần bỏ đi sạch. Trong khi đó nếu tu hành theo Chánh pháp, có Chánh kiến, có Chánh tín, có Chánh hạnh, đầy đủ mười nghiệp thiện, thì một mình mình thôi cũng có trăm nghìn thần bảo hộ. Tuyệt vời không? Vậy mà không theo.

Giống như quốc vương, Đại thần của quốc vương có trăm nghìn người hộ vệ một người. Ở đây cũng như vậy, người tu hành pháp thiện, đầy đủ mười nghiệp thiện, như một người có trăm nghìn thần hộ vệ. Vì nhân duyên này, cho nên, người thế gian có người bị quỷ thần quấy nhiễu, có người không bị quỷ thần quấy nhiễu.

(Trích từ Phẩm Đao Lợi Thiên – Kinh Thế Ký – Kinh Trường A Hàm).

Quý vị thấy mấy vấn đề này ở trong kinh có hết, vậy mà không chịu học. Hồi xưa Thiện Trang cũng có học Pháp Uyển Châu Lâm rồi, sau này Thiện Trang thấy bộ Pháp Uyển Châu Lâm vẫn chưa bằng Đại tạng kinh. Tại vì hồi xưa kiếm mấy bộ này dịch ra tiếng Việt mà không có, và hồi đó không có thời gian coi, với lại không có thời gian coi chữ Hán. Sau này những bộ này đã được dịch ra, có chữ Hán rồi, mình coi được rồi, nên mình thấy tuyệt vời quá, Đại tạng kinh hay hơn, chứ bộ Pháp Uyển Châu Lâm, rồi An Sĩ Toàn Thư cũng hay, nhưng [chỉ là] trích thôi, trích thì không đầy đủ. Còn coi trong đây mình thấy chi tiết này cực kỳ hay.

Quý vị có thấy hay không? Quá hay! Nên ráng tu nha! Ráng tu để một mình quý vị được trăm nghìn thần bảo hộ, còn không thì không có ai hộ vệ. Trăm nghìn người mà có một vị thần hộ vệ, nên bị quỷ thần quấy nhiễu, mới bị tai nạn gì đó v.v… Chứ quý vị được bảo vệ như vậy, ra đường làm gì bị tai nạn được. Còn một mình mình đi, “độc sanh độc tử, độc khứ độc lai”, ra đường nên mới bị tai nạn giao thông, bị chuyện này chuyện kia. Cho nên không oan uổng chút nào, ráng lên! Đây là từ Kinh Thế Ký, Phẩm Đao Lợi Thiên, phẩm này là Phẩm thứ tám, quý vị có thể giở Kinh Trường A Hàm ra coi.

Nãy giờ là [Thiện Trang] cung cấp kiến thức căn bản, để quý vị vui thôi, còn bây giờ mình vô tu tập A Tỳ Đàm.

4 Kiết Sử Che Lấp Tâm Người

Tôi nghe như vầy: Một thời, đức Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ Đà, nước Xá Vệ. Bấy giờ, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Mặt trời, mặt trăng, bị bốn sự che khuất khiến không phóng ra được ánh sáng. Thế nào là bốn? (Đức Phật đưa ra một ví dụ như mặt trời, mặt trăng bị che, không phát ra ánh sáng được, bây giờ hỏi coi bốn yếu tố bị che là gì?) Một là mây, hai là bụi gió, ba là khói, bốn là A-tu-la.

Mây che mặt trời, mặt trăng đúng rồi, hai là bụi gió, ba là khói, bốn là A-tu-la. Trong kinh hay nói A-tu-la mỗi khi xuất hiện, thân to lớn lắm, có thể che cả mặt trời, mặt trăng luôn. Trong Kinh Trường A Hàm có phẩm về Thiên Tử (Nhật Cung Thiên, Nguyệt Cung Thiên) [nói là]: ở trên mặt trời và mặt trăng thực ra có nguyên dòng họ đó, họ tu phước lành nên được sanh ở trên mặt trời và mặt trăng. Và có hiện tượng giải thích là tại sao mặt trăng lúc thì tròn, lúc thì khuyết. Những điều này thì khoa học đưa ra giải thích có một kiểu, nhưng đức Phật đưa ra giải thích đầy đủ, để bữa nào Thiện Trang trích cho quý vị nghe, còn bây giờ nhiều quá nên không trích.

Tóm lại là có nhóm người ở trên đó, khi A-tu-la lên hù họ thì họ cũng sợ lắm, A-tu-la che được mặt trời, mặt trăng mà. Nhưng do phước lực của chúng sanh, cho nên A-tu-la không thể nào khiến cho mặt trời hay mặt trăng có thể mất được. Tại vì mặt trời, mặt trăng ảnh hưởng đến cả chúng sanh ở bốn châu. Ví dụ như mặt trời ảnh hưởng đến cõi Nam Thiệm Bộ châu hay Trái đất của chúng ta. Nên khiến cho A-tu-la cũng không làm được gì, chỉ có đi hù cho sợ chơi thôi. Nhưng A-tu-la che được, có khi [mặt trời, mặt trăng] bị che. Đây là nói A-tu-la, hơi trừu tượng.

          Khiến mặt trời, mặt trăng bị che khuất, không phóng ánh sáng được. Này Tỳ-kheo, đó gọi là mặt trời, mặt trăng bị bốn sự che khuất này, khiến không phóng ánh sáng lớn được. Ở đây cũng vậy, Tỳ-kheo có bốn Kiết sử che kín tâm người không khai mở được. Thế nào là bốn? (Điều này quan trọng, tại sao tâm của chúng ta bị che, tâm bị mờ không khai mở được? Chúng ta phải biết bốn nguyên nhân này, gọi là bốn Kiết sử. Kiết sử là điều ràng buộc, sai sử).

Một là Dục kiết (Dục kiết tức là tham muốn, mình ham muốn nên đầu óc mình không sáng), che lấp tâm người không khai mở được. Điều này thì rõ ràng, nếu chúng ta có sự ham muốn gì đó là quên hết, trí không mở ra được. Mà càng ham muốn nhiều, là niệm niệm điều đó. Nói đơn giản, quý vị muốn mua điện thoại mới, muốn mua xe mới, muốn mua nhà mới, hoặc cái gì đó, thì cứ niệm xe, niệm điện thoại, niệm nhà, [nên] niệm đó che hết, đâu sanh trí huệ được. Còn người thảnh thơi, bắt đầu mới ra ngắm trời, ngắm nước. Còn người muốn mua nhà, thì đi đâu cũng thấy nhà, so sánh trong đầu nhà này với nhà kia, mai mốt mình mua cái nhà này hay xây nhà này. Hoặc muốn mua xe, thì ra thấy xe này, xe kia v.v… Trong đầu toàn [nghĩ về] xe thì làm sao khai ngộ được, làm sao sáng suốt được. Nên Dục kiết này là một Phiền não che mất tâm mình.

Hai là Sân nhuế (Sân nhuế tức là sân hận. Mình đang sân (tức) ai đó, thì đố quý vị có đầu óc sáng được, đầu óc mình mờ mờ, vì tức quá, tức quá nên che lấp [tâm mình]. Cho nên đừng giận tức ai. Và sân nhuế này, thực ra Tâm sở Sân mình đã học rồi, không chỉ sân người ta, mà đôi khi bực với chính mình, đôi khi buồn, buồn buồn cũng là sân đấy. Cho nên kiểu gì cũng là sân, không được, đầu óc không sáng. Cho nên người tu hành là phải tự tại, phải vui vẻ, phải hoan hỉ, không hối tiếc quá khứ, không mơ mộng tương lai, không có giận tức ai, luôn luôn tâm phải bình thường, thì trí tuệ mới sáng được, đó là bí quyết tu hành).

Ba là Ngu si (Ngu si là si mê, chẳng có Chánh kiến, tức là không biết về Tứ thánh đế: là Khổ, Tập, Diệt, Đạo; và Khổ – Không, Vô thường, Vô ngã. Nói chung là quý vị không nhận ra được điều đó, suốt ngày mê ở trong trần, thì trí không sanh được).

Bốn là lợi dưỡng, che khuất tâm người không khai mở được. (Lợi dưỡng là những điều gì mình đạt được, thế là mình ham mình nghĩ, bữa nay có người cho mình cái này, cho mình cái kia. Rồi lo kiếm tiền cho nhiều vô, kiếm tài sản cho nhiều, thì điều đó cũng che tâm luôn, che khuất không mở được).

Này Tỳ-kheo, đó gọi là có bốn Kiết này che khuất tâm người không khai mở được, hãy tìm cầu phương tiện tiêu diệt liền bốn Kiết này. Các Tỳ-kheo, hãy học điều này như vậy”. (Ở đây không nói các Tỳ-kheo đâu, mà nói chúng ta luôn đó).

Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ làm theo.

(Kinh Số 2 – Phẩm Thanh Văn Thứ 28 – Kinh Tăng Nhất A Hàm).

Đây cũng là một cách tu tập. Cho nên muốn tu thì phải không tham, tức là không ham một điều gì hết, đừng mong muốn nhiều quá. Mong muốn Chánh đạo thôi, chứ còn mong muốn tùm lum là không được. Rồi không sân, là không sân với người, không sân với mình, nói đơn giản là vậy. Vì sân với mình là buồn, tức những gì vừa qua v.v… Rồi không ngu si, muốn không ngu si thì phải học pháp nhiều. Cuối cùng là không ham những lợi dưỡng, lợi dưỡng là muốn được thứ này, muốn được thứ kia, người này cho thứ này, cho thứ kia, [vì] tu một thời gian là có phước báo, cho nên cứ mong. Tâm như thế, toàn ham lợi dưỡng, [thì sẽ] che lấp tâm, nên tu khó là vậy đó. Nhưng thật ra mấy điều này, nếu ai học hiểu được Khổ – Không, Vô thường, Vô ngã là buông được hết. Hiểu được chữ Khổ thôi là buông được hết.

Thiện Trang xin giới thiệu tiếp một điều nữa, bữa nay giới thiệu tu tập, hôm bữa mình đã giới thiệu rồi, bữa nay giới thiệu lại Tùy tín hành, Tùy pháp hành, Thân chứng, Kiến Đáo, bốn địa vị này. Tại vì sao giới thiệu bốn [địa vị] này? Quý vị nhớ bài hôm bữa Thiện Trang giới thiệu cho quý vị trong Kinh Phước Điền, Kinh 127 của Trung A Hàm, nói đến có bao nhiêu bậc, thì chúng ta thấy có 27 bậc địa vị Thánh, gồm: Hữu học có 18, Vô học có 9. Trong đó mới đầu vô kể là: Tùy tín hành, Tùy pháp hành, Thân chứng, Kiến đáo, Gia gia, Nhất chủng v.v… Bữa nay Thiện Trang xin giới thiệu tiếp.

Mỗi hôm Thiện Trang giới thiệu rõ hơn về địa vị đó. Bữa rồi Thiện Trang nói chỉ giới thiệu tên thôi, hôm nay sẽ giới thiệu cho quý vị bốn địa vị: Tùy tín hành, Tùy pháp hành, Thân chứng và Kiến đáo. Rồi mai mốt quý vị học trong Luận Câu Xá, thì mình sẽ thấy mấy địa vị này như thế nào, chia chẻ ra. Tức là mỗi lần giới thiệu rộng ra thêm một chút. Lần này giới thiệu cũng mở ra một chút, nhưng chỉ sơ lược thôi. Còn sau này cứ càng ngày càng [mở rộng] thêm. Cách chia sẻ của Thiện Trang là như vậy. Tại vì nghe qua một lần thì quý vị sẽ không nhớ được, vì nhiều [thông tin] quá thì không nhớ được. Thay vì vậy thì mình cứ nghe một chút, rồi lần sau mình mở rộng thêm một chút nữa. Và những địa vị này là chúng ta có thể vào được.

Ở đây cũng trích từ kinh thôi, cho nên quý vị yên tâm, Thiện Trang toàn trích từ kinh nên quý vị khỏi phải mất công suy nghĩ, khỏi nói là thầy [Thiện Trang] nói có đúng hay không. Quý vị có thể coi kinh.

Thế Nào Là Địa Vị: Tùy Tín Hành, Tùy Pháp Hành, Thân Chứng, Kiến Đáo?

Tôi nghe như vầy: Một thời, đức Phật ở vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ Đà, nước Xá Vệ.

Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Nay có bốn hạng người đáng kính, đáng quý, là ruộng phước thế gian. Sao gọi là bốn? Là Tùy tín hành[1], Tùy pháp hành,[2] Thân chứng,[3] Kiến đáo[4].

Tùy tín hành, Tùy pháp hành, Thân chứng, Kiến đáo, bốn hạng người này là đáng kính, đáng quý và là ruộng phước thế gian. Ruộng phước là nơi gieo [hạt] giống phước, ta gieo để gặt được phước thế gian. Tức là nơi đó nếu mình cúng dường cho họ, giúp đỡ họ v.v… thì phước mình lớn lắm, [đó là] ruộng phước thế gian. Đây là địa vị Hữu học thôi.

Sao gọi là người Tùy tín hành? Hoặc có một người lãnh thọ sự giáo giới của người khác, có tín tâm chí thiết, ý không nghi nan; có tín tâm nơi Như Lai Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Hiệu Là Phật Thế Tôn, cũng có tín nơi lời dạy của Như Lai, cũng có tín nơi lời dạy của đồng phạm hạnh; hằng có tín nơi lời người khác, không tùy theo trí của mình. Đó gọi là người trì tín (hay còn gọi là người Tùy tín hành).

Đây là một bậc trong các quả vị của Phật. Đây là bậc Hữu học, không phải đơn giản đâu. Thấp hơn địa vị Tu-đà-hoàn, nhưng vào đây là ngon rồi. Hôm bữa Thiện Trang giới thiệu Tùy tín hành là gì rồi, trong kinh trích rồi: “Nếu đời này người đó tu mà không chết giữa chừng, thì chắc chắn sẽ chứng quả Tu-đà-hoàn”.Cho nên mình vào đây là ngon rồi đó, thật ra là vào bậc Hiền rồi. Cho nên không có thoái đọa xa nữa, thậm chí không có đọa lạc nữa, nên là ngon lắm. Mà mình tu như thế nào? Tại quý vị thấy vô thấy Sơ quả Tu-đà-hoàn khó quá. Ở trong Kinh Tương Ưng của Nam truyền nói rằng: Người chứng Sơ quả Tu-đà-hoàn giống như núi Tu-Di đã dọn sạch sẽ hết rồi, còn để lại bảy cây cỏ thôi. Phiền não giống như núi Tu Di, nhiều như vậy, mà làm sạch sẽ hết, chỉ còn bảy cây cỏ thôi, tại vì họ còn tối đa bảy đời nữa thôi. Nếu [chứng quả] Sơ quả Tu-đà-hoàn khó quá thì có những [địa vị] dễ hơn, [trong đó] Tùy tín hành là dễ nhất. Tất nhiên là sau này chúng ta học [thì có các địa vị] Gia hạnh còn dễ hơn nữa.

Ở đây làm sao để vào được Tùy tín hành, vì Tùy tín hành nếu có thọ mạng đủ thì chắc chắn mình vào Sơ quả Tu-đà-hoàn. Nhớ như vậy! Vậy thì mình không chết giữa chừng là được, là chắc chắn mình vô Sơ quả Tu-đà-hoàn, và thậm chí là mình chứng cao hơn nữa. Cho nên tiêu chuẩn là gì? Đoạn vừa rồi nói rất là đơn giản, không cần phá Thân kiến, Giới cấm thủ, Nghi gì hết, mà ở đây nói: ‘Sao gọi là người Tùy tín hành? Hoặc có một người lãnh thọ sự giáo giới của người khác, có tín tâm chí thiết, ý không nghi nan’. Đó là điều thứ nhất.

Như vậy là quý vị nghe lời lãnh thọ, tức là nghe sự giáo giới, sự dạy dỗ của người khác, và quý vị phải có tín tâm chí thiết (là chí thành, chí thiết), rồi ý không nghi nan tức là ý mình không nghi người ta. Quý vị coi thời nay [người ta] toàn là nghi. Đây là đức Phật nói nghi người khác, chứ chưa nói nghi Phật. Ví dụ như Thiện Trang chia sẻ cho quý vị, mà quý vị nghi là xong rồi đó, là quý vị rớt khỏi, không vào được [địa vị] này.

Đời nay quý vị thấy đa số là như vậy. Nghe một hồi rồi chạy đi chỗ khác, bây giờ thầy Thiện Trang theo Nam truyền rồi, hoặc là ổng phản bội, không đi theo đường lối cũ nữa, bắt đầu là [nói] tùm lum lên, rồi không thèm theo nữa. [Đó] là nghi rồi, cho nên rớt, không vào [được] địa vị này đâu, quý vị rơi khỏi Tùy tín hành rồi. Ngay tiêu chuẩn dễ nhất là tin lời dạy của người khác, mà mình không tin được.

Tín tâm là niềm tin mà không có chí thiết, rồi ý không có nghi nan. Bây giờ mình dễ nghi lắm, nhìn thầy nào cũng nghi hết, mình học thấy ai cũng là phàm phu hết. Thì đúng là phàm phu thiệt, nhưng người ta truyền giáo pháp Như Lai, người ta dạy kinh điển, chứ người ta đâu phải dạy theo ý của người ta đâu mà mình cũng nghi luôn. Cho nên là rớt rồi. Nếu ai có căn lành lớn thì tự nhiên họ sẽ không nghi. Đầu tiên là không nghi đối với lời người dạy mình (đối với giáo giới của người khác), và niềm tin đó phải chí thiết, tức là thật sự tha thiết, chí là rất, là cực kỳ, cực kỳ tha thiết. Điều này có mấy ai làm được? Đó là rớt rồi nha, coi chừng Tùy tín hành là rớt luôn.

Chưa đủ đâu, [ở đây còn nói]:‘có tín tâm chí thiết, ý không nghi nan; có tín tâm nơi Như Lai Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, hiệu Là Phật Thế Tôn’. Tóm lại đây là tin Phật, điều này thì dễ, nhưng tín tâm nhiều người cũng không tin được luôn thì thua, [nên] khỏi tu gì hết. Nhiều người đâu có tin đâu, ví dụ như biết việc đó là sai nhưng vẫn cố gắng làm, nghĩa là mình chống lại Chánh pháp.

Giống như bây giờ nhiều người biết thừa là Sư Minh Tuệ đúng, nhưng vì lợi ích của mình, vì [mục đích] gì đó, cho nên cố gắng chống tới cùng. Đó là vì mình không tin đối với Như Lai, không tin đối với Chánh pháp. Cho nên là đó là rớt khỏi [Tùy tín hành], đừng có hy vọng vào Sơ quả. Tại vì những người đó là không có đủ niềm tin đối với Như Lai.

[Ở đây nói]: ‘Cũng có tín nơi lời dạy của Như Lai,phải có niềm tin đối với lời dạy của Phật, [nếu Phật] mà cũng không tin luôn thì thôi chịu thua;cũng có tín nơi lời dạy của đồng phạm hạnh, đồng phạm hạnhlà những người tu cùng với mình;hằng có tín nơi lời người khác, không tùy theo trí của mình. Đó gọi là người trì tín.Bây giờ có mấy ai làm như vậy, toàn là tin vào trí của mình thôi, mình chưa có trí nhưng còn không tin người khác. Cho nên là không có cách nào vô địa vị này được, nếu như không có điều đó.

Quý vị thấy khó không ạ? Tùy tín hành nghe thì dễ, nhưng xét ra thì rớt sạch, có vài người được thôi. Cho nên từ đó quý vị biết là quý vị có vào được Tùy tín hành hay chưa, nếu chưa thì bây giờ điều chỉnh lại nha. Đó là đời Phật dạy chứ không phải Thiện Trang tự bịa ra để nói.Như vậy Tùy tín hành thì dễ thôi. Thật ra Thiện Trang thấy điều này dễ đó, điều này là mình làm được. Mình cứ tin một người, ráng lựa chọn người nào giảng đúng Chánh pháp, thì mình tin theo. Rồi tin theo những lời Phật dạy, và những người đồng phạm hạnh dạy, nhưng đồng phạm hạnh thì phải tu tốt, điều này dễ. Như vậy quý vị cứ thực hành theo đó.

Cho nên Phật Pháp có một câu nói là ‘cứ tin là vô được’, trong Luận Đại Trí Độ nói: “Phật pháp đại hải, tín vi năng nhập”, tức là biển lớn của Phật pháp, tín thì có thể vào được. Muốn vào được cửa thì đầu tiên là tin giáo pháp Phật, tin Phật, tin người dạy giáo pháp [cho] mình. Tin vào những lời đó mình làm theo, thì quý vị làm rốt ráo. Và tất nhiên phải đúng với Chánh pháp, chứ trật Chánh pháp [thì không] nói. Quý vị làm [được như vậy] thì một đời quý vị vào được Sơ quả Tu-đà-hoàn. [Chỉ] vậy thôi! Nếu một đời mà thọ mạng vẫn còn [thì có thể vào được Sơ quả]. Tại vì bài trước mình học rồi, Tùy tín hành là nếu người đó đã có niềm tin như vậy, và một đời mà họ không chết giữa chừng thì họ sẽ chứng được Sơ quả Tu-đà-hoàn.

Bí quyết bữa nay còn dễ hơn nữa.Tại sao vậy? Ở đây Thiện Trang giải thích theo Thiện Trang, quý vị nghe có hợp lý thì nghe. Đó là khi mình có niềm tin như vậy thì mình sẽ thực hành, và khi mình thực hành bằng niềm tin như vậy thì mình sẽ tự động [phá] ba Kiết sử: Thân kiến, Giới cấm thủ và Nghi. Từ từ phá, trước sau gì cũng phá [được] thôi. Tại vì với thời gian huân tập pháp lâu ngày, thì tự nhiên sẽ phá được Giới cấm thủ, phá được Nghi và phá được Thân kiến, từ từ sẽ thấy. Quý vị cứ tu đi, theo năm tháng [thì sẽ phá được].

Cho nên Thiện Trang có nói với một số đồng tu, quý vị nghĩ xem quý vị tu được bao lâu rồi. Có người nói con tu mười mấy năm rồi. Thiện Trang cũng tu 15 năm rồi, từ năm 2010 đến bây giờ là 2025, là coi như 15 năm. 15 năm nhưng thật ra thời gian đầu tu đâu có đúng, tu tùm lum, đâu có tu [đúng] đâu, phải bao nhiêu năm sau, mấy năm sau thì mới tu đúng. [Nhưng] từ khi tu đúng là bắt đầu như diều gặp gió vậy, như cá gặp nước, như hổ về rừng. Có nghĩa là mình đi rất nhanh và từ đó mình thấy: Ôi! Phật pháp không khó, con đường tu chứng không khó. Nếu như mình tu, mình thực hành như vậy thì một thời gian thôi là mình vượt lên khỏi địa vị phàm phu được. Vấn đề là mình có đủ niềm tin để được đến đó hay không, mình gặp được Chánh pháp như vậy hay không. Bởi vì thời nay Chánh pháp không dễ nghe, khó lắm! Nghe dụ thì dễ lắm, ngon ngọt, dụ này dụ kia, rồi họ nói theo ý của họ, họ dẫn cho đã, nghe đã tai, nhưng so với trong kinh thì trật. Vấn đề là chỗ đó, vấn đề là phải đúng theo kinh, đúng theo luật, đúng theo A Tỳ Đàm.

Điều này thì chúng ta đã học lâu rồi, Thiện Trang có trích dẫn trong kinh, đức Phật nói là phải suy xét, phải coi đúng trong kinh hay không, đúng trong luật hay không, đúng theo A Tỳ Đàm hay không. Bây giờ mình coi có đúng không, không đúng thì con đường đó là mình tu hành trật. Trật rồi thì không có cách nào vào Tùy tín hành, không có cách nào vào quả Sơ quả hết. Còn khi đã đúng rồi, quý vị thực hành đủ thời gian là được. Còn nếu không đủ thì chưa được Sơ quả Tu-đà-hoàn, nhưng quý vị vào được [Tùy tín hành] rồi thì đời sau quý vị cũng không đọa ác đạo. Vì Tùy tín hành là cũng vào dòng Thánh rồi mà, đức Phật khẳng định là [địa vị này] vô bậc Hữu học rồi.

 Quý vị có nhớ không? Bộ Kinh Phước Điền ở trong Trung A Hàm, hôm bữa Thiện Trang trích, rõ ràng là vào dòng Thánh rồi, dòng Hiền rồi, ngon quá rồi, làm sao có thể đọa lạc vào ác đạo được. Điều này cũng giống như bất hoại tịnh đối với Phật, bất hoại tịnh đối với Pháp, bất hoại tịnh đối với Tăng, bất hoại tịnh đối với Thánh giới. Cho nên ngon lành, dễ không quý vị? [Địa vị này] dễ hơn nhiều, đường tu hành đâu khó đâu, tại vì mình không biết, mình thấy tu chứng gì đâu mà khó quá.

Đó là Tùy tín hành, hôm nay [Thiện Trang] giới thiệu xong rồi. Bây giờ tới Tùy pháp hành:

 “Sao gọi là người Tùy pháp hành? Ở đây, có người phân biệt ở nơi pháp, không tin người khác; quán sát pháp rằng: ‘Có chăng? Không chăng? Thật chăng? Hư chăng?’ Rồi người ấy nghĩ thầm: ‘Đây là lời Như Lai, đây là lời đồng phạm hạnh*.’ Vì biết đây là pháp ngữ của Như Lai, người ấy liền phụng trì. Nếu là những lời của ngoại đạo, người ấy xa lìa. Đó gọi là người Tùy pháp hành.’’

 Ở đây quý vị thấy, lỡ mình không được như trên, như trên là không cần biết [gì hết], cứ cắm đầu vô tin, nhưng may là đi đúng đường. [Còn] quý vị là hạng người có trí tuệ, thì quý vị sẽ rơi vào hạng người này, có nghĩa là không tin một cách mù quáng. Quý vị thấy ở đây là người phân biệt nơi pháp, không tin người khác. [Tức là] tôi không tin, chưa chắc, tôi thấy ông cũng chưa ổn lắm, thấy thầy cũng chưa ổn lắm, không tin. Nhưng người ta có quán sát pháp rằng: Có chăng? Không chăng? Tức là có đúng không? Có sai hay không? Có thật không hay là giả dối đây? Người ta sẽ biết cách chọn. Rồi người ấy than rằng:‘Đây là lời của Như Lai, đây là lời của đồng phạm hạnh’ tức đây là những lời đúng. Đây là lời Phật đúng, đây là lời của đồng phạm hạnh đúng, [nên] mình thực hành theo. ‘Vì biết đây là pháp ngữ Như Lai, người ấy liền phụng trì. Còn nếu là những lời ngoại đạo thì người ấy xa lìa’. Và người ta thực hành như vậy, cho nên người ta chứng quả và quả này cũng là Sơ quả Tu-đà-hoàn. Bài hôm bữa Thiện Trang nói không biết Sơ quả hay Nhị quả, thì [ở bài này] khẳng định là Sơ quả Tu-đà-hoàn luôn.

Như vậy hạng người này là người có trí, ở trong Chú Giải của Luận Câu Xá hay trong bộ nào thì Thiện Trang quên rồi, nói rõ người Tùy pháp hành khác với người Tùy tín hành ở chỗ nào. Người Tùy tín hành là họ vào đạo bằng niềm tin, tức là họ chỉ tin thôi, cắm đầu vô tin lời của Phật dạy, tin Phật và tin người thầy dạy cho mình, tin người đồng phạm hạnh tức là những người tu chung với mình. Họ tin và họ thực hành như vậy, nên họ vô được Sơ quả Tu-đà-hoàn, thì họ là Tùy tín hành. Tất nhiên là họ có thể chưa vào nha.

Còn hạng người Tùy pháp hành là người có trí tuệ, tức là họ phân biệt rõ ràng: Tuy thầy đó dạy mình, tuy người đó dạy mình, nhưng họ quan sát có đúng không, sai không, họ biết đúng sai và [biết] thật hay không. Họ biết suy xét rằng lời của người này đúng với Phật, lời này là trật nè. Và người ta thực hành lựa chọn theo lời đúng. Như vậy người ấy đời này nếu không chết giữa chừng, thì chắc chắn họ sẽ chứng Sơ quả Tu-đà-hoàn. Người đó gọi là Tùy pháp hành, cho nên họ có trí tuệ.

Quý vị nào có trí tuệ thì có thể tu theo điều này. Được không? Được mà! Tức là ở trên [Tùy tín hành] là [người] không có trí tuệ, cứ tin nghiễn đi. Còn ở dưới này là [người] có trí tuệ, tu có chọn lọc, dù thầy đó giảng tầm bậy, nhưng có những chỗ ổng giảng đúng, tôi nghe theo chỗ đúng thôi, tôi thấy chỗ này đúng theo lời Phật, nên tôi chọn. Quý vị thấy Tùy pháp hành cũng dễ mà, đâu có khó đâu. Không khó nha! Và nếu giữa chừng không bị chết thì chắc chắn vào Sơ quả Tu-đà-hoàn. Sướng không!

Bây giờ Thiện Trang thấy trong lớp này có rất nhiều người đủ Tùy pháp hành, nhiều người đâu có tin sái cổ, tin kiểu mù quáng đâu, toàn soi ghê lắm. Nhưng [quý vị] soi quá, mà soi trật là xong luôn, có nhiều người soi trật đó quý vị, không đủ trí tuệ, không phân biệt [được]. Ví dụ như nói thầy đó giảng tầm bậy rồi, trong khi đó thầy đó giảng đúng với Chánh pháp. Còn người giảng bậy mình lại cho là đúng, thì xong rồi, người đó không phải là Tùy pháp hành, người đó trật, họ không đủ trí tuệ, mà họ cũng không phải Tùy tín hành luôn. Những người đó là phàm phu, thì tiếp tục trôi lăn trong vòng sanh tử thôi, biết sao được. Điều đó là do mình đã không có trí tuệ, lại không có niềm tin, thì chịu thua.

Phật pháp hoặc là vào bằng niềm tin, và may mắn [gặp] người dạy cho mình đúng là vào được. Còn không, mình thông minh, mình trí tuệ, mình biết phân biệt đúng sai, mình quán sát được pháp, mình phân biệt đây đúng, đây sai, đây thật, đây không thật, mình chọn để thực hành thì mình vào được Tùy pháp hành. Và cuối cùng mình chứng Sơ quả Tu-đà-hoàn, nếu như trong thời gian thọ mạng mình chưa hết, có đủ thời gian thì mình sẽ chứng. Như vậy dễ mà! Đó là hai bậc. Coi vậy chứ cũng khó, bậc này khó hơn, phải có trí tuệ.

          Hôm bữa [Thiện Trang nói] có tới 18 địa vị, [Thiện Trang] giới thiệu được hai rồi đó. Địa vị thứ ba là [Thân chứng].

Sao gọi là người Thân chứng? (Hôm bữa quý vị nhớ có [hạng] Thân chứng không ạ? Thân chứng là như thế nào?) Ở đây, có người tự thân tác chứng, cũng không tin người khác, cũng không tin lời Như Lai, và những ngôn giáo của các Tôn túc đã dạy lại cũng chẳng tin, chỉ theo tính mình mà chứng nhập. Đó gọi là người Thân chứng.

Người này giỏi hơn nữa, tức là họ chẳng cần tin ai hết, tự thân tác chứng, tức là tự tác, tự tri, tự chứng. Họ chẳng tin ai hết, không cần tin người khác, không tin luôn lời của Như Lai, và những ngôn giáo của bậc Tôn túc, gọi là Thiền sư này, Thiền sư kia tôi cũng chẳng cần quan tâm, tôi tự hành tôi tự biết, cuối cùng họ vào được luôn. [Hạng này gọi] là người Thân chứng. Người này thuộc chủng tánh Độc giác, họ tự mình đi được, khỏi cần [thầy]. Hay chúng ta nói cách khác là Ba-la-mật nhiều đời của họ mạnh quá, cho nên thầy tà tôi cũng không cần quan tâm, giáo pháp Như Lai giảng tôi cũng chưa biết. Người này đúng là tuân theo Kinh Kalama đó quý vị, là‘chớ vội tin, chớ vội tin’. Điều nào tôi áp dụng, tôi thực hành thấy hiệu quả thì tôi tin, tự tôi tu. Lời Phật dạy tôi chưa biết tin hay không, nhưng tôi cứ áp dụng thử coi, thử một hồi tôi thấy điều này hiệu quả thì tôi tự tu, tôi tự đi, cuối cùng một hồi cũng chứng vô Sơ quả. Cho nên gọi là Thân chứng.

Quý vị có chủng tánh cao thì quý vị đi con đường này. Thiện Trang tin là đời nay ít người đi con đường này lắm, đa số bậc một là mê tín, cứ vô đi, miễn có thầy giỏi chỉ cho mình, Phật dạy sao thì làm theo vậy, là vô được Tùy tín hành bằng niềm tin. Còn chủng tánh thứ hai là có trí tuệ phân biệt, là tôi cũng phải tin người chứ, cũng phải coi thầy đó dạy điều nào đúng thì tin, còn điều nào không đúng thì không tin, còn Phật dạy là phải tin tuyệt đối 100%. Còn [hạng] người này ghê hơn, Phật dạy nhưng tôi chưa tin luôn.

Cho nên quý vị thấy [địa vị] Sơ quả Tu-đà-hoàn có câu chuyện của ngài Xá Lợi Phất hay ngài nào đó, Thiện Trang nhất thời không nhớ tên, nhưng ở trong kinh. Ngài đó đắc Sơ quả Tu-đà-hoàn rồi, thì ngài đó nói là bây giờ con không cần nương vào người nào để tin, con cũng không cần nương vào Như Lai nữa, bởi vì con đã kiến đế rồi, con đã thấy sự thật rồi. Hồi xưa con chưa thấy nên con phải nương vào Như Lai, còn bây giờ con kiến đế, con tự thấy rồi, con biết thật như vậy rồi, nên không cần nương vào người khác.

Vì vậy Sơ quả Tu-đà-hoàn quý vị đọc trong kinh là người đó không cần tin vào người khác nữa, bởi vì họ đã thấy Tứ đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo rồi, người kiến đế là họ tự đi được rồi. Giống như người đã thấy đường rồi, quý vị đã biết rõ đường đi từ Hà Nội vô Sài Gòn rồi, thì quý vị cần gì phải đi hỏi người ta, cần gì phải chỉ nữa, cần gì cầm bản đồ để coi nữa, giờ ta biết thì ta đi đường đó là chắc chắn tới rồi. Sự biết 100% như vậy gọi là Kiến đế, thấy được sự thật rồi.

Ở đây cũng vậy, người này là căn tánh cao hơn nữa, tức là tự thân họ tác chứng (thực hành), rồi họ chứng nghiệm thấy: À, điều này đúng rồi đó, họ không cần tin vào người khác đâu, cũng không cần tin vào lời của Như Lai luôn, những ngôn giáo của bậc Tôn túc dạy, họ cũng không cần. Tôi chỉ thực hành theo ý của tôi thôi, theo tính mình thôi, vậy là chứng nhập. Như vậy là ngon quá đúng không? Đó là người Thân chứng.

Ở đây có nói Thân chứng là ‘hàng thứ năm từ dưới, nhảy hàng ba và tư. Trong liệt kê này, Hán dịch nhảy sót hàng thứ ba: tín thắng giải’. Ở đây thiếu địa vị Tín thắng giải này, nhưng không sao, trong một bài khác thì chúng ta sẽ giới thiệu. Ở đây có lẽ chép thiếu thế nào đó, bỏ mất một địa vị. Cũng không quan trọng lắm, chúng ta chỉ cần học thôi.

Sao gọi là người Kiến đáo? (Tiếp theo là hạng người thứ tư) Ở đây, có người đoạn ba kiết, thành pháp bất thối chuyển Tu-đà-hoàn. Người ấy có kiến giải này: ‘Có bố thí, có người nhận, có báo thiện ác, có đời này, có đời sau, có cha, có mẹ, có A-la-hán v.v.’ Người ấy vâng lời dạy, tin vào tự thân tác chứng mà tự chứng nhập.

Kiến đáo định nghĩa đơn giản là những người này đã đoạn ba Kiết sử, và thành bất thoái chuyển Tu-đà-hoàn. Ở đây là Tu-đà-hoàn bất thoái chuyển, tức là không lui sụt nữa. Còn mấy địa vị ở trên cũng là Tu-đà-hoàn, trong kinh nói có 9 hay 10 bậc Tu-đà-hoàn, Thiện Trang nhớ là 9 bậc Tu-đà-hoàn thì phải, thì có những bậc Tu-đà-hoàn thoái chuyển. Còn địa vị Kiến đáo này là Tu-đà-hoàn bất thoái chuyển, thì đoạn được 3 Kiết sử rồi: Thân kiến, Giới cấm thủ và Nghi. Người này có kiến giải rằng: ‘Có bố thí, có người nhận, có báo thiện ác, có đời này, có đời sau, có cha, có mẹ, có A-la-hán v.v.’ Điều này là định nghĩa của Chánh kiến, thật ra người này là họ có Chánh kiến. Họ có Chánh kiến nên họ vào. Và người đó có Chánh kiến rồi thì họ vâng theo lời dạy thôi, tự thân họ làm và tự chứng nhập thôi. Điều đó là đương nhiên.

Cho nên quý vị thấy cơ hội để vào Sơ quả rất nhiều, Thiện Trang nhớ trong Kinh Trường A Hàm, đức Phật khen ngài Xá Lợi Phất thì phải: Ta thì thuyết có một hạng Tu-đà-hoàn thôi, còn ông thì khéo hơn, ông thuyết thì chia ra đến 9 hay 10, 11 bậc gì đó, Thiện Trang không nhớ rõ, để bữa nào Thiện Trang tra lại kinh. Như vậy đây đều là những bậc Tu-đà-hoàn đó quý vị. Cho nên [địa vị] Tu-đà-hoàn có thoái chuyển và không thoái chuyển. Nên mình học mấy bộ này mới đầy đủ như vậy, chứ còn cứ nói Tu-đà-hoàn là có một địa vị Tu-đà-hoàn, rồi 7 đời sau thành A-la-hán, ở trong cõi Dục 7 đời. Điều đó là kiến thức căn bản và không đủ, thiếu quá nhiều. Quý vị thấy Tu-đà-hoàn có quá trời kiểu mà, có kiểu Tu-đà-hoàn 3 đời, có kiểu Tu-đà-hoàn 1 đời ở trong gia đình tôn quý, Thất chủng, Gia gia v.v… rồi đây cũng là Tu-đà-hoàn. Cho nên [địa vị] Tu-đà-hoàn có nhiều lắm. Bất thoái chuyển Tu-đà-hoàn thì họ phải tu được [phá ba Kiết sử].

Cho nên không học thì không biết, [có người] kêu những điều này ở trong A Tỳ Đàm. Xin lỗi! Ở ngay trong kinh có, chứ không phải A Tỳ Đàm. Nếu ở trong A Tỳ Đàm, Luận Câu Xá thì người ta nói: “Tôi học kinh tạng thôi, tôi không học những bộ đó nên tôi không biết”. Nếu cho là như vậy thì cũng được đi. Còn đây là ngay trong Kinh A Hàm, ngay trong Kinh Nikaya, Kinh Niyaka cứ cho là Nam truyền đi, lấy Kinh A Hàm là thuộc về Hán tạng, mình học không biết mà đòi làm Pháp sư, thì điều đó nguy hiểm.

Đôi khi Thiện Trang nói làm Pháp sư nhiều khi nguy hiểm lắm, làm Pháp sư dẫn bao nhiêu người, nếu mình dẫn đúng thì công đức vô lượng, còn mình dẫn sai mà họ cứ nương theo mình để học, rồi họ tu không chứng, tu không đạt được gì. Lẽ ra những người đó gặp người khác dạy đúng, thì họ sẽ đắc đạo ra khỏi sanh tử. Còn mình dẫn một hồi họ không ra khỏi sanh tử, thì tội của mình lớn hơn, nghiệp của mình nặng hơn. Rồi bao nhiêu người nương theo mình, thấy người ta giảng đúng Chánh pháp lại không tin mà còn phỉ báng nữa, như vậy thì tội của mình nặng.

Cho nên cẩn thận nha, ai muốn làm Pháp sư, muốn giảng kinh thuyết pháp, thì Thiện Trang khuyên là mình hãy học, ít nhất trong Đại tạng kinh thì coi giùm cho được một tạng, đó là tạng Kinh. Không coi được nhiều thì cũng phải coi A Hàm và Nikaya. Bây giờ Kinh Nikaya đầy, hãy coi hết đi thì mới nắm được lộ trình tu tập. Và nếu như có thể thì hãy coi thêm A Tỳ Đàm, Vi Diệu Pháp ở bên Nam truyền, coi những bộ luận bên Bắc truyền như: Luận Câu Xá, Đại Tỳ Bà Sa Luận, v.v… những bộ về Duy Thức của Tiểu thừa. Khi quý vị nắm được rồi, quý vị làm Pháp sư thì may ra mới khỏi nạn.

Do ở đây là công án của chư Tổ, chứ không phải công án từ thời Phật. Chứ nếu mà công án từ thời Phật thì Thiện Trang cũng sợ lắm, đó là công án: ‘Sai một chữ chuyển ngữ, đọa 500 đời làm hồ ly’, thời ngài Bá Trượng ở Trung Hoa. Sai có một chữ chuyển ngữ thôi, vị đó làm Pháp sư từ thời đức Phật Ca Diếp, có người hỏi: “Người đại tu hành có rơi (lạc) vào vòng nhân quả hay không?” Ngài ấy trả lời sai một chữ, đáng lẽ ra là ‘bất muội nhân quả’, mà ngài trả lời là ‘bất lạc nhân quả’. Bất muội tức là không mê muội, không mê lầm về nhân quả, đại tu hành là kiến tánh rồi. Thật ra không cần đại tu hành gì ghê gớm đâu, theo định nghĩa trong Kinh A Hàm và Kinh Nikaya, một người Sơ quả Tu-đà-hoàn là đã có Chánh kiến, chính là nội dung vừa rồi chúng ta học đó: Kiến đáo là người ta tin vào: ‘Có bố thí, có người nhận, có báo thiện ác, có đời này, có đời sau, có cha, có mẹ, có A-la-hán v.v.’ Người có Chánh kiến thôi là họ đã biết nhân quả rồi, là họ đã bất muội nhân quả rồi. Bất muội nhân quả mà trả lời thành bất lạc nhân quả, họ vẫn còn ở trong vòng nhân quả mà, chưa ra khỏi. Trả lời sai vậy thôi mà 500 đời (500 đời chứ không thể là 500 kiếp được), từ thời đức Phật Ca Diếp mà mãi đến thời nhà Đường vẫn chuyển thân thành một con hồ ly, đọa 500 đời như vậy, và sau đó mới giải được.

Cho nên quý vị thấy Thiện Trang giảng, xưa nay Thiện Trang không nói càn, có nhiều đồng tu thắc mắc: “Hòa thượng Tịnh Không giảng như vậy, sao thầy không trích dẫn như vậy?” Thiện Trang nói đoạn đó Thiện Trang chưa tìm thấy trong kinh, có những điều mà Thiện Trang thấy không giống trong kinh nên Thiện Trang không dám trích. Vì sao vậy? Vì sợ, không dám nói càn. Đôi khi nói càn thành nói liều. Cho nên sau này sợ quá, thôi trích kinh cho chắc, có gì kinh sai thì đó là lỗi của người dịch, lỗi của người chép kinh gì đó v.v… còn mình cứ giảng theo kinh.

Còn có những chi tiết nào Thiện Trang nói, thì Thiện Trang nói đó là Thiện Trang nói, thỉnh thoảng Thiện Trang nói đây là theo Thiện Trang thôi, quý vị tin hay không thì tùy quý vị. Đó là những lời của Thiện Trang, còn tùy vào quý vị nhận định. Thiện Trang chia ra rất rõ là: lời nào của Phật (tức là lời trong kinh), lời nào trong luận, lời nào của chư Tổ, lời nào của Thiện Trang, lời nào của ai đó thì người đó chịu trách nhiệm. Chứ không là mình giảng không được bao nhiêu phước đức, mà mình tiêu hết, mình giảng sai Chánh pháp là tiêu hết. Đừng tưởng dễ, mình dẫn bao nhiêu [người] đọa lạc thì nhân quả mình cũng đọa lạc luôn.

Đó là mình tự nói nha, chứ trong kinh Phật cũng không nói như vậy, đó là mình tự suy diễn nhân quả. Thật tế thì Phật cũng không nói như vậy đâu, Thiện Trang nghĩ là cũng không hẳn như vậy. Tại vì người giảng pháp thì ít nhiều gì họ cũng huân tập được pháp. Pháp cho dù không rốt ráo chính xác 100%, nhưng cũng đưa họ đến gần địa vị giải thoát. Tất nhiên mình dẫn chúng sanh sai lạc, họ không chứng quả thì tội của mình là hơi thiếu từ bi, mình muốn người ta ra khỏi sanh tử mà mình dẫn người ta đi vào sanh tử. Đó là do ngu si, do mình không có kiến đế, không sáng suốt. Cho nên đó là lỗi của mình. Chứ còn Thiện Trang nghĩ nhân quả thật ra có nhiều thứ trong đó, rắc rối phức tạp, chứ không phải nói mình dẫn người ta lạc thì mình lạc luôn, không hẳn như vậy. Nhân quả của nhà Phật rất phức tạp, có khi mình lạc luôn, [nhưng] có khi do mình huân tập trong kinh giáo, vì mình cũng có tín tâm mà, mình cũng cố gắng, giảng một hồi cũng Khổ – Không, Vô thường, Vô ngã đó thôi. Rồi cuối cùng mình cũng sẽ đắc đạo thôi. Đó là những điều Thiện Trang tự phát kiến mà nói, quý vị tin hay không thì tùy quý vị tự suy xét.

Chúng ta trở lại, đó là địa vị Kiến đáo.

Đó gọi là, này Tỳ-kheo, có bốn hạng người này. Hãy niệm trừ ba hạng người đầu. Hãy niệm tu pháp thân chứng.

Các Tỳ-kheo, hãy học điều này như vậy”.

Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

(Kinh Số 10 – Phẩm Đẳng Thú Bốn Đế – Thứ 27 – Kinh Tăng Nhất A Hàm). (Như vậy đây là thứ 27, còn ở trên là 21).

Cho nên hãy cố gắng tu theo 3 hạng người đầu, còn hạng người sau là thành tựu rồi. Như vậy quý vị thấy những nội dung này quan trọng không ạ? Dễ mà, đâu có khó đâu, sao đồng tu nói tu khó quá thầy ơi! Quý vị chỉ cần 4 điều thôi: là bất hoại tịnh đối với Phật, bất hoại tịnh đối với Pháp, bất hoại tịnh đối với Tăng, và bất hoại tịnh đối với Thánh giới. Quý vị đi vào cửa đó là Tùy tín hành, là dễ nhất. Và nếu như không vào Tùy tín hành, mai mốt chúng ta học thì chúng ta sẽ thấy, chúng ta cũng có thể vào Tứ gia hạnh, nhớ như vậy.

Cho nên không khó đâu. Con đường giải thoát không khó, chỉ cần có đi là sẽ có đến. Đời này quý vị làm xong là ok, quý vị vào Noãn vị cũng ok, quý vị vào Đảnh vị càng ok nữa, còn [nếu] vào được Nhẫn vị là quý vị không đọa ác đạo nữa, và vào được Thế đệ nhất vị là quý vị gần đến Sơ quả Tu-đà-hoàn lắm rồi. Những địa vị đó là dễ hơn rất nhiều. Nếu quý vị không vào được những địa vị đó, thì ít nhất quý vị cũng trồng được căn lành trong Phật pháp, đời sau quý vị gặp lại cũng nhanh lắm, không đọa vào đường ác đâu, đừng có sợ, đừng có lo lắng lắm. Bởi vì mình tu tập một đời, với Chánh pháp như vậy, với khả năng nỗ lực như vậy, thì không bị đọa đâu. Chỉ khi mình không tu, mình phá giới, mình làm tùm lum tùm la, do mình không biết. Thậm chí khi mình phá giới rồi, nhưng nếu biết sửa lỗi, nếu biết Phật pháp tu hành thì vẫn thoát khỏi Địa ngục, Ngạ Quỷ, Súc sanh, miễn là quý vị đừng làm những việc Ngũ nghịch thôi. Ngũ nghịch thì khó, trong kinh chưa thấy ai làm những việc Ngũ nghịch mà thoát khỏi Địa ngục. Nhưng rõ ràng là vẫn có con đường để thoát, nhưng chưa thấy thôi. Chỉ có trường hợp đó là khó, còn lại quý vị vẫn còn có cơ hội để tu hết. Hãy cố gắng tu tập.

Tiếp theo Thiện Trang xin giới thiệu thêm một phần nữa, Thiện Trang muốn sửa lỗi của Thiện Trang, đó là phần Tuổi Thọ Của Các Cảnh Giới. Một mặt là để bổ sung thêm, một mặt là để bổ sung phần lỗi của bài hôm trước Thiện Trang trích từ A Tỳ Đàm. Tức là một cuốn sách giáo lý A Tỳ Đàm của Giáo sư gì đó bên Miến Điện, dịch giả là Sư Toại Khanh, thì có trích ra Tuổi thọ của cõi Người và các tầng trời, quý vị có nhớ không ạ? Bữa đó Thiện Trang trích xong ở trong đó thì Thiện Trang nghĩ đúng rồi. Nhưng bữa nay coi lại Kinh A Hàm thì Thiện Trang thấy không chính xác, cho nên Thiện Trang muốn đính chính lại, theo kinh vẫn chuẩn hơn là theo A Tỳ Đàm. Không biết tại sao cuốn đó sai, có những chi tiết mà Thiện Trang thấy là cần phải bổ sung, và có những chi tiết mở rộng, cho nên xin hôm nay giới thiệu lại tuổi thọ của các cảnh giới, từ cõi Người, cõi Địa ngục, Ngạ quỷ, và một số cõi khác v.v… cho đến cõi Trời. Nếu quý vị kết hợp với bài hôm bữa thì quý vị so lại, và lấy bài này làm chuẩn, còn bài hôm bữa thì hãy bỏ đi. Chứ không thì Thiện Trang có lỗi, quý vị cứ share bài hôm bữa thì Thiện Trang có lỗi, để bữa sau Thiện Trang làm lại cái bảng cho chuẩn hơn. Hôm nay xin giới thiệu lại, đoạn này ngắn thôi. Đây là lời của Phật dạy:

“Tuổi thọ của người Diêm Phù Đề là 100 năm, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. Đoạn này là lời đức Phật Thích Ca nói. Vào thời đó thì tuổi thọ tại cõi Nam Thiệm Bộ Châu (Trái đất của chúng ta) là chỉ có 100 năm thôi, và ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới (tức là dưới 100 tuổi). Điều này thì chúng ta quá quen.

Tuổi thọ của người Câu Da Ni là 200 năm, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. Thiện Trang nhớ Câu Da Ni là cõi Đông Thắng Thần Châu, không biết có nhầm không, nhưng Thiện Trang nhớ là Đông Thắng Thần Châu.

Tuổi thọ của người Phất Vu Đãi là 300 năm, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. Tất nhiên kể Đông Thắng Thần Châu rồi, thì tới Phất Vu Đãi chính là Tây Ngưu Hóa Châu; chữ Hóa trong hàng hóa. Tức là cõi đó lấy bò để trao đổi làm hàng hóa, ai có nhiều bò thì người đó giàu. Cõi đó lúc đó tuổi thọ là 300 tuổi, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới.

Tuổi thọ của người Uất Đan Viết là 1.000 năm, không có tăng hay giảm (ở trong Kinh Vô Lượng Thọ có trích là: ‘Uất Đơn thành thất bảo’, cõi Uất Đơn (Đan) Việt là cõi Bắc Cô Lô Châu, thì tuổi thọ ở đó là 1000 năm. Quý vị để ý là không có tăng hay giảm, tức là tuổi thọ của người ở Bắc Cô Lô Châu chỉ cố định là 1000 năm, không có yểu mệnh, thậm chí họ không có bệnh nữa kìa.

Và không chỉ vậy đâu, quý vị coi trong Kinh A Hàm nói rất rõ: là người ở đó giống nhau, hình như người đều giống như 22 tuổi ở cõi Nam Diêm Phù Đề chúng ta. Tức là người ở đó sanh ra một thời gian sau là lớn nhanh lắm, sẽ thành người như vậy, và họ giống nhau. Họ cũng giống như người ở Tây Phương Cực Lạc vậy đó, họ cũng cao như nhau, rồi quần áo cũng không phân biệt. Cho nên khi xuống tắm xong rồi lên là họ lấy đồ mặc thôi, không cần phải suy nghĩ. Vì sao? Vì trong kinh đức Phật nói họ là Vô ngã, vì họ không có phân biệt nữa, rất là sung sướng. Trong 4 châu thì chỉ có cõi Uất Đơn Việt (Bắc Cô Lô Châu) là họ ăn chay, còn 3 châu còn lại là vừa ăn chay vừa ăn mặn, ăn thịt, ăn cá tùm lum. Giống như cõi của chúng ta là ăn thịt, ăn cá… Cho nên tuổi thọ của người ở cõi Uất Đơn Việt (Bắc Cô Lô Châu) tới 1000 năm. Và sau khi chết, trong kinh nói vì đó là nơi thắng xứ (nơi thù thắng) nên họ lại tiếp tục được sanh lên cõi Trời, và sau khi cõi Trời hết thọ mạng thì họ lại sanh xuống nhà tôn quý ở nhân gian. Và thông thường là họ sanh vào cõi của chúng ta, trong kinh nói như vậy.

Cho nên đó là một cõi rất là thù thắng, thù thắng nhưng không có Phật pháp, đời đó coi như vô đó chơi hưởng phước thôi, sướng lắm, sướng vô cùng, không có phải làm lụng như ba châu kia. Ba châu kia đi làm mệt lắm, chúng ta đi làm mệt, chứ sống ở cõi đó hưởng thụ sướng lắm. Sướng thì sướng nhưng không có Phật pháp, mất 1000 năm rồi lên cõi Trời thêm thời gian nữa. Trên cõi Trời có Phật pháp chứ không phải không có, nhưng có gặp và học được Phật pháp hay không thì lại là một chuyện khác.

Tuổi thọ của Ngạ quỷ là 70.000 năm (hay là 70 vạn năm). Dài không quý vị? Không cẩn thận là vô Ngạ quỷ luôn, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. Nhưng may quá, tuổi thọ ngắn, phần nhiều là dưới, chứ không 70.000 năm là chết luôn, ở trong đó biết bao giờ ra. Cho nên đừng ham vô Ngạ quỷ, Thiện Trang muốn trích dẫn điều này để nói đường Ngạ quỷ dễ vô mà lâu ra. Nếu mà mình sống đến 70.000 năm thì biết đến bao giờ ra.

Tuổi thọ của loài rồng và Kim sí điểu là một kiếp hoặc có giảm đi. Điều này còn kinh khủng nữa, một kiếp luôn, một kiếp này là Trái đất tan hoại rồi sanh ra lại. Nếu như vậy thì làm loài rồng với Kim sí điểu (chim cánh vàng) mệt lắm, nếu may mắn tuổi thọ giảm đi thì cũng được ra sớm.

Tuổi thọ của A-tu-la là 1000 năm của cõi trời, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ của A-tu-la là 1000 năm, bằng [tuổi thọ của] trời Đao lợi rồi. Ở đây nói cõi Trời nhưng không thấy nói là trời nào.

Tuổi thọ của Tứ Thiên Vương là 500 năm của cõi trời, ít ai vượt qua khỏi (trời Tứ Thiên Vương thì chúng ta biết), mà phần nhiều là dưới. Thiện Trang muốn đính chính chi tiết này, ‘phần nhiều là dưới’có nghĩa là không phải lên cõi trời Tứ Thiên Vương là chơi 500 năm đâu, mà phần nhiều là dưới, tức là chưa tới 500 năm thì rớt xuống tiếp. Cho nên đừng ham lên cõi Trời, bài hôm nay là có chữ ‘phần nhiều là dưới’, khác với [bài hôm trước] ở chỗ đó.

Tuổi thọ của trời Đao Lợi Thiên là một 1000 năm của cõi trời, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. Cũng vậy, nghĩa là quý vị lên cõi Trời Đao Lợi hết thọ mạng lúc nào không biết, rớt xuống, [nên] đừng có ham. Năm tướng suy hao hiện ra trên thân là rồi, đọa xuống. Cho nên lên cõi Trời không cứu cánh đâu, không phải 1000 năm, lên đó mà cười hề hề kêu: Tôi có tuổi thọ 1000 năm.

Thiện Trang nhắc điều này, [nếu] sau này có người sanh về cõi Trời thì nhớ nha, lên cõi Trời là không biết thọ mạng bao lâu đâu, mà thọ mạng hết là rớt đó, nên lên đó lo mà tu tiếp nha! Ai lên cõi Trời được thì ráng lên, lên cõi Trời có Phật pháp, cho nên yên tâm, trên cõi Trời có Phật pháp chứ không phải là không có. Chẳng qua là sung sướng quá, ăn rồi đi chơi miết, như ở trời Đao Lợi có 4 cái vườn, nào là vườn Hoan Hỷ (Hỷ Lạc), ăn rồi chơi, còn nam nữ một tháng hai lần, mùng 8 với rằm mở ra, tức là giống như phố đèn đỏ, kiểu vậy đó. Nam nữ vô đó muốn thế nào thì muốn, cho thoải mái luôn, hoặc có chỗ mở tiệc ăn chơi quá trời. Nếu quý vị có phước thì quý vị vô trong đó.

Có người hỏi như sau: “[Có phải] thời gian tính theo ngày đêm như cõi Ta Bà chúng ta?” Điều này thì ở bài trước [Thiện Trang] nói rồi, ở đó một ngày một đêm bằng bao nhiêu năm ở nhân gian có rồi. Kết hợp bài đó đi là biết, cần gì phải hỏi nữa. Ở đây chỉ nói tuổi trên đó thôi mà, đây là tính tuổi theo trên đó. Còn một ngày một đêm của trời Đao Lợi bằng 100 năm của nhân gian, điều đó mình học rồi, tự mình biết đi chứ. Như vậy lên trời Đao Lợi chưa ngon đâu nha quý vị, coi chừng rớt xuống sớm. Vậy [tuổi thọ] của các cõi Trời khác thì sao?

Tuổi thọ của cõi trời Diễm Ma là 2000 năm của cõi trời, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. [Quý vị] tưởng lên trời thứ ba, trời Tu Diệm Ma ngon lắm hả? Nhiều lắm cũng chỉ 2000 năm ở trên đó thôi, một ngày ở trên đó bằng 200 năm ở nhân gian, cứ thế mà tính 1 năm 360 ngày nhân lên, chúng ta đã có bài tính hết rồi, quý vị nhớ ‘phần nhiều là dưới’. Có nghĩa là đa số rớt xuống trước rồi, chứ không phải lên đó là ngon đâu. Nhớ là ở cõi Trời cũng vô thường.

Tuổi thọ của trời Đâu Suất là 4000 của cõi trời, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới (cũng vậy luôn, cũng rớt nha). Tuổi thọ của trời Hóa Tự Tại là 8000 năm của cõi trời, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ của Tha Hóa Tự Tại thiên là 16000 năm của cõi trời, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. (Như vậy [tuổi thọ các tầng trời sau này] cũng vậy nha, chứ không phải cố định đâu).

Cho nên Thiện Trang nói hôm bữa [ở trong] bộ Luận A Tỳ Đàm viết kiểu đó là viết số lớn nhất thôi, chứ không phải là con số cố định, mà có thể thấp hơn, phần nhiều (đa số) là rớt. Có nghĩa là ai sống thọ lắm được 16000 năm, phước báu lớn lắm mới đủ. Còn không thì lên đó vài bữa là xài hết phước. Giống như đi du lịch, mình mang nhiều tiền thì mình lên đó sống được 16000 ngày. Còn không mới lên mấy ngày là hết tiền rồi, thôi đi về đi làm tiếp để kiếm tiền nữa. Ở trên đó rớt một phát là rớt thê thảm luôn, nhiều khi rớt vô Súc sanh luôn. Cho nên hãy cẩn thận, thế gian vô thường thực sự.

Tuổi thọ của trời Phạm Ca Di là một kiếp, hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ của trời Phạm Ca Di là ba tầng trời: thứ bảy, thứ tám, thứ chín. Chúng ta hay nói ba tầng trời, thực tế có một tầng trời thôi, gồm: Trời Phạm Chúng, trời Phạm Phụ và trời Đại Phạm. Ba tầng trời đó thật ra là một, chẳng qua tuổi thọ của ba nhóm đó [khác nhau]: Nhóm vua là trời Đại Phạm, nhóm làm quan chức tạm tạm là trời Phạm Phụ, còn nhóm làm dân thường là trời Phạm Chúng. [Tuy] khác nhau, nhưng tuổi thọ cao nhất cũng chỉ là một kiếp thôi. Một kiếp là thời gian Trái đất này sanh ra rồi diệt đi, rồi sanh ra lại. Đó là Đại kiếp. Đức Phật không nói thì đó là Đại kiếp. Hoặc có giảm bớt, nên cũng có thể giảm sớm hơn. Không chắc đâu!

Tuổi thọ của trời Quang Âm là hai kiếp, hoặc có giảm bớt. Ở đây chỉ nói Quang Âm Thiên, Quang Âm Thiên thực ra là trời Nhị thiền. Thực tế có ba tầng trời là: Trời Thiểu Quang, trời Vô Lượng Quang, và trời Quang Âm. Nhưng ở đây lấy cao nhất là hai kiếp, còn ở giữa tất nhiên sẽ có giảm bớt. Vì ở giữa nên đức Phật nói tắt. Thật ra ba tầng trời đó cũng như một tầng trời, nên mới nói vậy. Thật ra mình gom vô Nhị thiền thôi, cũng giống nhau. [Trời] Nhị thiền này khác nhau ở chỗ: có người thì ánh sáng mạnh cực kỳ, gọi là Quang Âm Thiên (hay gọi là trời Cực Quang); còn người ánh sáng yếu yếu thì gọi là Thiểu Quang; trời Vô Lượng Quang là người có ánh sáng mạnh giữa giữa. Quý vị nhớ nha! Lúc nào cũng chữ ‘hoặc có giảm bớt’, nên không chắc chắn đâu.

          Hồi xưa có người thắc mắc: Thưa thầy, hình như con ở cõi Trời xuống, còn thầy ở dưới nhân gian, mà sao con thấy một hồi cũng gặp nhau?” Thì quý vị lên cõi Trời có bao lâu đâu, phước của quý vị có bấy nhiêu đó [thôi]. Thiện Trang ở nhân gian cũng được, nhưng quý vị ở trên trời rồi cuối cùng cũng gặp nhau nữa. Thật ra là quý vị lên đó không đủ tuổi thọ để sống lâu trên đó, vì phước báu quý vị tu được bấy nhiêu đó thôi. Tâm thức của mình lúc lâm chung tương ưng với cõi Trời, mình có thiện tâm, thiện hạnh, nên mình được sanh vào cõi Trời, nhưng phước mình ít quá.

Giống như quý vị có phước đi du lịch, quý vị mua vé du lịch đi chơi, nhưng tiền ít quá thì đi chơi mấy ngày rồi về. [Đó là] quý vị không đủ phước. Còn Thiện Trang ở cõi Người, tâm thức của Thiện Trang không hướng về chư Thiên, nên Thiện Trang không lên chư Thiên, Thiện Trang ở cõi Người thôi. Phước của Thiện Trang cũng có thể ngang ngang với quý vị. Hoặc ví dụ Thiện Trang có phước hơn quý vị, nhưng Thiện Trang ở cõi Người, và Thiện Trang lo tu nên không hưởng được phước gì hết. Còn quý vị lên đó đi du lịch, đi chơi bao nhiêu ngày đó.

Cho nên càng học kinh giáo bao nhiêu thì càng thấy sáng tỏ bấy nhiêu. Và quý vị thấy chán Tam giới chưa? Chứ không thì ham lên cõi Trời, mình thấy [tuổi thọ] 1000 năm, 16000 năm, rồi lên trời Tha Hóa Tự Tại sướng lắm. Trời Tha Hóa Tự Tại sướng lắm quý vị, nhưng dứt cho câu ‘mà phần nhiều là dưới’, nên hết tuổi thọ là thôi, ngán rồi đó. Nên học để thấy thế gian vô thường, mới bỏ được, mới ra khỏi được [Tam giới]. Lên trời Sơ thiền, [trời] Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền cũng vậy, [như vậy] quý vị mới bỏ được phần Kiết sử trong Ngũ Thượng phần Kiết sử là Sắc ái kiết.

Sắc ái kiết là sự yêu thích về cõi trời Sắc giới. [Trời Sắc giới], mình cũng ngán luôn. Học những điều này thì mình mới buông được, cho nên phải học giáo pháp cho rõ ràng. Khi rõ rồi thì không ai chui vào chỗ khổ hết, ai cũng muốn vào chỗ sướng. Chỗ sướng nào? Là Niết-Bàn tịch tĩnh, an lạc, vô vi. Niết-Bàn thì tất nhiên là tịch tĩnh; #tịch tĩnh là vắng lặng, dễ chịu, nhẹ nhàng; rồi #an lạc là vui vẻ; #vô vi chính là không sanh không diệt nữa. Chứ còn mình học mà không hiểu, thì mình cứ ham lên các cõi trời Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền Sắc giới, vô những [cõi trời này] đều là Sắc ái kiết hết. Ham điều đó, còn yêu thích là Sắc ái kiết. Cho nên A-la-hán bỏ luôn điều đó.

Còn quý vị lên các tầng trời trên như: Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu Xứ, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, tức là mình vẫn yêu thích, [nhưng] không phải xác thân nữa mà yêu thích tinh thần của mình, muốn hiện hữu trong tinh thần [thì gọi là] Vô sắc Ái kiết. Còn có yêu thích, thì sự yêu thích đó trói buộc mình trong Tam giới, nhưng không phải Tam giới ở dưới, mà ở bốn tầng trời trên gọi là Vô sắc Ái kiết. Cho nên phải bỏ điều đó đi. Mình học, mình hiểu ‘thế gian vô thường, ba cõi không an, giống như nhà lửa’, ở đâu cũng toàn là sanh tử rình rập chờ sẵn như vậy.

Hồi trước mình nghe hai ông A La Ma và ông Uất Đầu Lam Phất, hai ông đó là thầy của Thái tử Tất Đạt Đa, khi đức Phật còn đi học đạo. Cuối cùng một ông sanh về trời Vô Sở Hữu Xứ, một ông sanh về trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng xứ, mình nghe mình hâm mộ ghê gớm. Đức Phật nói hai ông đó mà nghe Ngài giảng pháp là hai ông đắc đạo liền. Nhưng rồi không đủ duyên, hai ổng ở trên đó. Cuối cùng một ông sau này đức Phật thọ ký xuống làm Quốc vương, vua của một nước nào đó, rồi đánh cướp, giết người quá trời nên đời sau vô Địa ngục. Còn ông kia thì sau rớt qua một đời kiếp đọa, kiếp giữa tức là một kiếp độn ở cõi Người hoặc cõi Trời gì đó. Rồi sau ông đọa làm loài chồn bay (do hồi xưa ổng tức quá, nên [nguyện] là sẽ bắt hết cá hoặc là bắt những con thú trong rừng để ăn thịt). Do ăn thịt nhiều quá nên đời sau cũng vô Địa ngục luôn. Trong Kinh A Hàm nói là hai ông đó đều vô Địa ngục hết.

Quý vị thấy đau không? Đau chớ! Đọa Súc sanh thì chưa đâu, [còn phải bị] đọa Địa ngục [nữa]. Câu chuyện đó trong Kinh A Hàm, sau khi đức Phật nhập Niết-Bàn, có một vị Cư sĩ hỏi một vị Tôn giả (Thiện Trang quên tên vị Tôn giả đó rồi): “Sao đức Phật không thọ ký cho hai ông đó bao giờ đắc đạo?” Vì ổng tu cũng khá mà.Vị Tôn giả đó nói là: “Nếu như có đức Phật còn ở đời, chắc chắn Ngài sẽ thọ ký cho ổng”. Vì với sự tu tập đó không uổng đâu, tu tập tới đó rồi chắc chắn ông sẽ chứng đạo thôi. Nhưng chưa, vì không có Phật nên bây giờ làm sao biết được. [Vị Cư sĩ đó] hỏi: “Ngài là một bậc A-la-hán, mà sao ngài không trả lời được?” [Ngài] nói: “Duyên nghiệp trong vòng luân hồi phức tạp quá. Với trí tuệ của một vị A-la-hán không thể nào trả lời được, không thể quán sát được từng đó. [Chỉ] với trí của Phật thì mới quán sát được chuyện tương lai sau này [ổng] sẽ đi về đâu”.

Ví dụ như quý vị thấy, đời này gặp Thiện Trang thì quý vị tu như vậy. Còn [lỡ] đời sau quý vị gặp tà sư thì đi đâu mất tiêu. Ngay cả thầy đang tà mà chuyển sang chánh hồi nào mình cũng đâu có biết, rồi đang chánh mà ổng bị gì đó, ổng chuyển thành tà thì ai biết được, đúng không quý vị? Nhân quả nghiệp duyên thay đổi loạn cào cào hết. Là một vị A-la-hán chỉ quan sát được trước 7 ngày thôi, còn sự kiện sau 7 ngày là thua, quan sát không chính xác nữa rồi. Quý vị nên nhớ vậy!    

Còn đức Như Lai có Tam minh Lục thông, Ngài có đủ hết các trí, trong đó có trí Tri sanh tử, tức là [Ngài] biết được việc sanh tử của chúng sanh trong vô lượng kiếp đến tận đời vị lai, Ngài thấy được luôn. Cho nên Ngài mới thọ ký cho một vị nào đó thành Phật được chứ. Còn mình bây giờ mình có thọ ký được đâu, quý vị chứng A-la-hán quan sát được rõ việc chắc chắn trong 7 ngày thôi, còn sau 7 ngày không thể chắc chắn nữa.

Cho nên mình học càng rõ, càng sáng tỏ bao nhiêu thì mình tự tin lắm, biết mình là chúng sanh trong vòng luân hồi, nên lo mà tu. Mình tự tin thì mình lo tự tu đi, chứ không trông chờ vào ai được đâu, không ai bước đi với mình trong đường luân hồi đâu. Thật ra có một người luôn luôn bước theo mình, là nghiệp của mình. Còn nếu nói bước theo mình trong đường luân hồi thì chỉ có chư Phật các Ngài mới bước theo mình thôi, chứ còn chúng sanh thề thốt điều gì thì [đều] là vô nghĩa. Dù có thề là đời đời kiếp kiếp là đồng tu với nhau, đời đời kiếp kiếp hỗ trợ nhau tu hành, là thề giả hết. Vì nghiệp mỗi người đi con đường khác nhau, lâu lâu gặp nhau thề như vậy, có gặp nhưng thỉnh thoảng gặp.

Quý vị cứ coi câu chuyện cô Diệu Hiền với ngài Ma Ha Ca Diếp là biết, đời nào cũng thề nguyện là sẽ làm vợ chồng, hỗ trợ nhau tu Phạm hạnh cho đến khi chứng đạo. Nhưng quý vị coi lại xem, từ 91 kiếp trước thề như vậy (từ thời đức Phật Tỳ Bà Thi), rồi họ gặp nhau được mấy lần? Lần nào gặp cũng đẹp hết, tình luôn luôn đẹp, bởi vì thề nguyện như vậy mà. Nhưng gặp được mấy lần thôi, còn lại đường ai nấy đi, đúng như Kinh Vô Lượng Thọ nói “độc sanh độc tử, độc khứ độc lai”, tức là mình tự mình sinh ra một mình, chết đi một mình, tự mình đi, tự mình đến, không ai thay thế được.

Hay chúng ta lấy một câu chuyện hay hơn nữa, là câu chuyện tiền thân của [cô] Da Du Đà La và tiền thân của đức Phật Thích Ca. Quý vị thấy từ thời đức Phật Nhiên Đăng là xa xưa lắm rồi, hai người phát nguyện. Tức là cô Da Du Đà La kết chàng này quá, nên nguyện là bắt chàng phải yêu, bắt chàng hứa phải cưới. Anh chàng đó không đồng ý, vì tôi tu để giải thoát sanh tử, tôi đâu muốn người nữ làm vướng víu chân tôi làm gì. [Nhưng] nàng cũng bắt là phải đồng ý, nàng hỗ trợ hết, như vậy nàng mới tặng cho mấy bông hoa để cúng dường đức Phật Nhiên Đăng. Hình như Thiện Trang nhớ là bảy cành hoa sen thì tặng cho chàng năm cành, còn nàng giữ lại hai cành để tự cúng dường cho đức Phật Nhiên Đăng. Vậy mà quý vị coi lịch sử tiền thân của đức Phật Thích Ca, coi Ngài mấy đời gặp Da Du Đà La, cũng không nhiều. Cho nên trong vòng sanh tử đừng mê gì hết, chỉ có nghiệp đi theo mình là rõ ràng nhất, chúng ta thấy rõ ràng như vậy, [nên] mình [đừng] có thề nguyện.

Thực ra ngài Ma Ha Ca Diếp và cô Diệu Hiền gặp nhau nhiều hơn, vì hai người đều sắp thành đạo rồi, và càng về sau nguyện lực đó càng mạnh thì dễ gặp nhau nhiều, vì Ba-la-mật đủ, còn lúc trước gian nan lắm. Cho nên đừng mong, đừng nguyện nhiều. Nguyện đời đời kiếp kiếp gặp Tam Bảo, gặp Chánh pháp thì được, đời đời giác ngộ tu hành thì được, chứ [nguyện] đời đời đi chung với nhau thì khó lắm, trừ khi Ba-la-mật của quý vị sắp thành, quý vị làm Bồ-tát hạnh đủ rồi thì quý vị mới có duyên đó thôi, còn không thì khó lắm.

Như vậy là Thiện Trang đã giải thích tới trời Quan Âm Thiên rồi.

Tuổi thọ của Biến Tịnh thiên là ba kiếp hoặc có giảm bớt. Ở đây nói gộp ba tầng trời là [trời Thiểu Tịnh], trời Vô Lượng Tịnh, trời Biến Tịnh. Ba tầng trời này cũng là một tầng trời, nên có cách chia khác nhau.

Tuổi thọ của trời Quả Thật thiên là bốn kiếp hoặc có giảm bớt. Quả Thật thiên cũng gồm 3 tầng trời là trời Phước Sanh, trời Phước Ái, trời Quảng Quả. Ba tầng trời này xếp vô một, gọi là trời Quả Thật.

Tuổi thọ của trời Vô Tưởng thiên là 500 kiếp hoặc có giảm bớt. Trời Vô Tưởng thì riêng một mình trời này là 500 kiếp, nhưng có giảm bớt. Như vậy lên trên đó cũng chưa chắc là 500 kiếp làm pho tượng, điều này chúng ta đã giảng rồi, pho tượng cũng không hẳn là 500 kiếp.

Tuổi thọ của trời Vô Tạo là 1000 kiếp hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ của trời Vô Nhiệt là 2000 kiếp hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ của trời Thiện Kiến là 3000 kiếp hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ của trời Đại Thiện Kiến là 4000 kiếp hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ của Sắc Cứu Cánh thiên là 5.000 kiếp, hoặc có giảm bớt. Như vậy đây là năm tầng trời Bất Hoàn, có chia ra rõ ràng từ 1000 kiếp đến 5000 kiếp. Cho nên ai mà ở hàng Tam quả A-na-hàm kiểu độn căn, thì đi vòng hết mấy trời đó luôn là ngán lắm. Quý vị đi một loạt hết, mai mốt chúng ta học quả vị A-na-hàm, thì có quả vị vô là đi một vòng luôn hết năm tầng trời đó mới chứng đạo, như vậy thì lâu lắm, mệt lắm. May ở đây có chi tiết là giảm bớt, cho nên có thể lên nhanh, đỡ.

 Tuổi thọ của Không Vô Biên Xứ thiên là một vạn kiếp, hoặc có giảm bớt, (tức là 10.000 kiếp,cũng may là có giảm bớt). Tuổi thọ của Thức Vô Biên Xứ thiên là hai vạn một nghìn kiếp (là 21.000 kiếp) hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ của Vô Sở Hữu Xứ thiên là bốn vạn hai nghìn kiếp (là 42.000 kiếp), hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ của Phi Tưởng Phi Phi Tưởng thiên là tám vạn bốn nghìn kiếp (là 84.000 kiếp), hoặc có giảm bớt. (May là có giảm bớt, chứ không lên đó lâu quá cũng không có tác dụng gì). Trong giới hạn ấy, được gọi là chúng sinh; trong giới hạn ấy được gọi là tuổi thọ; trong giới hạn ấy được gọi là Thế giới; trong giới hạn ấy là sự luân chuyển của tập hợp Uẩn, Xứ, Giới, qua lại trong các cõi, sinh, già, bệnh, chết”. Quý vị nghe đoạn này, trong giới hạn đó gọi là chúng sinh, và chữ Uẩn, Xứ, Giới chúng ta đang học bên bộ Luận Câu Xá, cho nên quý vị thấy đoạn này hoàn toàn khớp.

(Trích từ Phẩm Đao Lợi Thiên – Kinh Thế Ký – Trường A Hàm).

Cho nên ở đây cũng không thoát khỏi. Mình học hết rồi mình thấy Thế gian cũng chán đúng không quý vị? Bây giờ hết ham rồi nha, hồi xưa chắc hâm mộ cõi Trời, bữa nay học xong thì hết hâm mộ cõi Trời luôn. Thấy đúng là ba cõi không an giống như nhà lửa, không chỗ nào an được hết, trước sau gì cũng vậy, thôi thôi ta mau ra khỏi sanh tử, mong chứng đạo trong đời này. Con nguyện hồi hướng đem bao nhiêu Ba-la-mật con tu được từ vô lượng kiếp tới giờ, con nguyện cho con sớm đắc đạo. Nếu có thể đắc đạo sớm trong đời này, còn không thì con cũng nguyện đắc đạo trong đời tương lai, hoặc ai nguyện về Tây Phương Cực Lạc, Tịnh Độ thì phát nguyện, tùy mỗi người.

Hôm nay Thiện Trang đã giới thiệu những kiến thức căn bản và Thiện Trang nghĩ những điều này đều quan trọng, chứ không phải mình giới thiệu chơi chơi. Hôm nay chắc hết thời gian rồi Thiện Trang xin giới thiệu phần Luận Câu Xá. Luận Câu Xá lâu rồi mình cũng không học, vì Luận Câu Xá có nhiều điều hay lắm, giải thích rất nhiều điều hay, chứ không phải mình thấy ngán ngán đâu, nhưng do mình học ít. Bữa nay học được đoạn nào thì học nha.

然 薄 伽 梵 於 契 經 中 說 六 思 身 為 行 蘊 者,由 最 勝 故。所 以 者 何 ?行 名 造 作,思 是 業 性 造 作 義 強,故 為 最 勝。是 故 佛 說 若 能 造 作 有 漏 有 為 名 行 取 蘊。

Nhiên Bạc Già Phạm ư Khế kinh trung thuyết lục Tư thân vi Hành uẩn giả, do tối thắng cố. Sở dĩ giả hà? Hành danh tạo tác, tư thị nghiệp tánh tạo tác nghĩa cường, cố vi tối thắng. Thị cố Phật thuyết nhược năng tạo tác Hữu lậu Hữu vi danh Hành thủ uẩn.

Giải:

#Nhiên Bạc Già Phạm ư Khế kinh trung thuyết lục Tư thân vi Hành uẩn giả: Như #đức Bạc Già Phạm tức là đức Thế Tôn (đức Phật) ở trong #Khế kinh tức là trong kinh điển; thường kinh điển có khi gọi là Khế kinh; thì nói về sáu Tư thân, #Tư tức là suy nghĩ; là Hành uẩn. Tư ở đây là suy tư hay là Thức, là Hành uẩn.

          Thiện Trang đang giảng tới chỗ Thân kiến, hôm bữa [giảng] đến Thọ rồi, hôm nay là [giảng] về Hành uẩn. Hành uẩn là gì? Nhờ chi tiết này chúng ta sẽ nói về Hành uẩn. Tại vì hôm bữa Thiện Trang có nói Hành uẩn là khía cạnh thiện ác của một hành động, suy nghĩ gì đó, tức là Tư niệm. Thật ra điều đó cũng có giới thiệu trong một cuốn sách A Tỳ Đàm, và Sư Toại Khanh có nói. Nhưng Thiện Trang coi lại Hành uẩn trong kinh, và coi mấy bộ của bên Nam truyền (bảy bộ về Vi Diệu Pháp), thì không phải như vậy, tức là không đủ. Nói như vậy cũng đúng nhưng chỉ nói tóm lược thôi.

Tức là mình nói: Khía cạnh thiện ác trong suy nghĩ, trong hành động của mình gọi là Hành. Trong Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức: Sắc thì chúng ta biết rồi; Thọ là cảm nhận, vui, buồn, không vui không buồn, không thọ lạc, không thọ khổ; Tưởng là những suy nghĩ dựa trên kinh nghiệm. Bây giờ mình nói về Thân kiến, quý vị cho rằng Tưởng đó, kinh nghiệm về những vấn đề đó là mình, và cho mình có trong Tưởng đó, thì quý vị dính vô Thân kiến về Tưởng.

Ví dụ quý vị cho là thầy Thiện Trang phải là người như thế này, người như thế kia v.v… Quý vị mặc định như vậy, theo nhận định của quý vị, theo kinh nghiệm quý vị biết: là thầy Thiện Trang khó tính lắm, lên [giảng] ổng hay nói lỗi người ta lắm. Quý vị mặc định như vậy, cho là như vậy, mình nhận định thầy Thiện Trang là như vậy, thì quý vị dính vô Thân kiến về Tưởng uẩn.

Vậy làm sao phá được Thân kiến này? Muốn phá Thân kiến này là do quý vị học Phật pháp nhiều, huân tập nhiều, tu tập nhiều, thì dần dần quý vị biết mình nhận định sai rồi, đó không phải nhận định của mình, đó là do nhiều duyên. Ví dụ do mình tiếp xúc với thầy Thiện Trang qua bài giảng, được nghe thầy dạy như vậy, nên mình nhận định như vậy. Chứ nhận định đó không phải là mình, nhận định đó là do duyên thôi. Thực tế có thể là thầy khác, ngoài đời thầy có thể vui vẻ hơn, nghe nói ngày xưa thầy đi dạy hay kể chuyện cười nữa. Thiện Trang đi dạy Toán thỉnh thoảng hay kể chuyện cười cho học sinh nghe, cười cho bài giảng đỡ căng thẳng.

Thiện Trang rất vui vì học trò của Thiện Trang nhận định là: Sao thầy hay quá, các thầy cô khác thông thường vì chuyện gia đình, vì chuyện gì đó, vô trong lớp là chửi, làm căng thẳng lắm. Còn thầy bước vào lớp lúc nào thầy cũng vui”. Thiện Trang nói: Tại vì các em không chịu trách nhiệm chuyện đó, không phải thầy lúc nào cũng vui, mà tại vì chuyện thầy buồn, bị người ta chửi hay ai nói gì đó v.v… giả sử có bị chuyện gì chăng nữa, thì chuyện đó bỏ ở ngoài, bây giờ gọi là Nhập xứ quán. Tức là mình vào nơi đó thì mình phải nghĩ rằng mình đóng vai trò khác rồi, không thể đem chuyện ở nhà: bữa nay bị mẹ chửi, hay bị đồng nghiệp chửi, bị người yêu chửi, là không liên quan. Mà khi mình vào trong lớp thì mình phải đóng vai trò là thầy của học sinh, ngôn ngữ nhà Phật gọi là Nhập xứ quán.

Vì vậy mình vào đó mình đối với học sinh vui vẻ, nên không phiền não. Nếu quý vị biết được những chi tiết đó thì quý vị sẽ [thấy]: hoá ra những nhận định, tưởng của mình không đúng, không phải là ta, không phải có ta trong đó, mà do duyên này duyên kia, do mình tiếp xúc với dữ liệu này, dữ liệu kia không đủ, cho nên mình tưởng như vậy. Ngày nào quý vị tách Tưởng đó ra, không cho Tưởng đó là mình, thì quý vị phá được Thân kiến về Tưởng.

Bữa nay chúng ta có một điều gọi là Hành uẩn, để mình phá Thân kiến: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, bữa nay mình đang học đến chi tiết này, mà chi tiết này cực kỳ quan trọng, đừng xem thường. Hành uẩn nói theo cách đơn giản là khía cạnh thiện ác, nhưng không phải như vậy, quý vị coi trong bộ A Tỳ Đàm (bộ nào thì Thiện Trang quên tên rồi) cũng có đầy đủ. Ở trong bộ Luận Câu Xá này cũng nói đầy đủ là:

Đức Bạc Già Phạm (đức Thế Tôn) ở trong kinh nói về sáu Tư thân là Hành uẩn; #tư là suy nghĩ. Sáu Tư thân là sáu suy nghĩ dựa trên sáu giác quan: Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý thức. Những suy nghĩ nào lọt vào trong đó, thì những suy nghĩ đó thuộc về Hành uẩn. Suy nghĩ có thể là suy nghĩ thiện, suy nghĩ ác, giống như Sư Toại Khanh nói. Và suy nghĩ không thiện không ác, cũng là một suy nghĩ. Nhưng ngoài ra còn những suy nghĩ khác.

Thiện Trang lấy ví dụ cụ thể hơn để quý vị nghe cho dễ hiểu: Quý vị suy nghĩ rằng người Việt Nam mình là da vàng, và mặc định suy nghĩ là da vàng, đó là Tư (suy nghĩ). Nghĩ đến người Việt Nam là da vàng, người Campuchia da vàng, thì người Campuchia cũng giống mình, đó là một suy nghĩ. Và ngay suy nghĩ đó, quý vị dựa trên ba yếu tố: Một là dựa theo mắt, quý vị thấy thật sự người Việt Nam da vàng, người Campuchia da vàng, vì là hàng xóm láng giềng. Rồi quý vị chưa đi qua Campuchia, nhưng quý vị nghe nói, hay coi trên hình thấy như vậy, đó là dựa trên kiến thức cung cấp từ những giác quan của mình, nói đơn giản như vậy. Hoặc quý vị dựa theo suy luận của mình, [dựa theo] Thức là sự biết, thì người Châu Á là da vàng thôi, và mình cứ suy nghĩ như vậy. Suy nghĩ đó là mình chấp, mình giữ điều đó, mình nghĩ như vậy là đúng rồi, thì suy nghĩ của mình thuộc về Thân kiến về Hành uẩn.

Hành uẩn là suy nghĩ, những điều gì suy nghĩ trong tâm, suy nghĩ này khác với những suy nghĩ ở đằng trước về kinh nghiệm. Có kinh nghiệm mình mới suy nghĩ, còn ở đây là mình suy luận ra thêm. Suy luận đằng trước là Tưởng, còn suy luận rộng hơn thì gọi là Hành uẩn. Trong suy nghĩ đó thông thường có thiện ác hoặc không thiện không ác. Có khi người ta rút gọn lại cho dễ hiểu là khía cạnh thiện ác trong suy nghĩ của mình. Nhưng tóm gọn lại [Hành] là suy nghĩ, suy tư. Nếu quý vị chấp vào suy tư đó là mình, và có mình trong đó, thì quý vị dính vào Thân kiến.

Ví dụ quý vị nhận định là người Việt Nam da vàng, ngày nào đó Thiện Trang đưa ra có một người Việt Nam không phải da vàng. Giống như có người dân tộc thiểu số ở đâu đó da đen, đâu phải da vàng, hoặc có người nhập quốc tịch là da đỏ, da trắng, ví như cầu thủ bóng đá [chẳng hạn]. Bây giờ người Việt Nam mình cũng cho nhập quốc tịch nhiều, có cả những người da trắng. [Những nhận định đó] hoàn toàn là trật.

Khi nào quý vị tu tập nhiều, huân tập nhiều, thì mình hiểu rằng: đừng cho ý đó, suy nghĩ đó là suy nghĩ của mình, vì suy nghĩ đó chẳng qua do duyên mà thành. Những duyên này do mình học mình biết, do tiếp xúc, rồi tư tưởng v.v… Bao giờ quý vị tu đến lúc nào tách ra được: À, do ta ở đây nên ta suy nghĩ như vậy. Nhưng nếu ta ở cõi Trời thì ta suy nghĩ khác, hoặc ta ở cõi Bắc Cô Lô Châu thì ta suy nghĩ khác, hoặc là ở Việt Nam thì ta suy nghĩ khác, hay ở đất nước khác thì ta suy nghĩ khác. Dần dần mình tách ra được, mình không chấp rằng suy nghĩ đó là mình, mình không cho nó đúng theo mình, v.v… thì mình tách được Thân kiến.

Thân kiến khó là do vậy. Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Sắc thì dễ rồi, nhưng Thọ, Tưởng, Hành, Thức thuộc về suy nghĩ, tư duy trong đầu, mà mấy tầng lớp tư duy như vậy. Cho nên mình tách ra được, tóm lại quý vị chỉ cần nhớ giùm một câu: Chớ cho rằng những suy nghĩ, kinh nghiệm, những gì mình biết là mình và có mình trong đó. Mình chỉ biết rằng đó là do đời này mình sống ở giai đoạn này, mình học như vậy, mình tiếp xúc như vậy, v.v… và những suy nghĩ của ta trật lất, tức là những suy nghĩ đó chưa hoàn toàn đúng.

Cho nên đức Phật nói một câu rốt ráo trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương: “Chớ có tin vào ý ông, ý ông không đáng tin, trừ khi ông chứng A-la-hán rồi thì mới tin được ý ông”. Tức là những suy tư, suy nghĩ của mình đều thuộc về Hành uẩn. Hành uẩn này mình tách ra khỏi là hết Thân kiến. Nhiều người nói khó quá thầy ơi. Mới đầu mình biết vậy đi đã, rồi mình tu tập nhiều, dần dần do kiến đế gọi là mình thấy được một phần chân lý, thấy được những chân lý về pháp Khổ – Không, Vô thường, v.v… Và hồi xưa mình học mình cho là đúng, nhưng sau mình biết hoá ra là chưa phải.

 Nhiều đồng tu bây giờ cũng phát hiện ra rồi, hồi xưa mới vô ‘tiên nhập vi chủ’, nghe vị thầy đó giảng mình kêu đúng, đúng, lúc nào cũng kêu thầy giảng tuyệt vời, thầy giảng đúng, mình ca ngợi, mình tôn sùng ghê gớm. Nhưng dần dần học một hồi thì thấy thầy đó cũng phàm phu, ổng giảng trật lất, giảng không đúng lời kinh v.v… Tức là qua năm tháng quý vị tích lũy dần dần, hồi xưa tưởng là mình đúng, môn này là tuyệt vời, v.v…

Giống hôm qua có cô học trò nói với Thiện Trang: “Bây giờ con mới nghe mấy bài giảng Luận Câu xá của thầy, con mới tiếc quá, biết vậy con coi sớm, [bộ Luận Câu Xá] hay quá. Xưa nay con ôm, chấp nói Tịnh Độ là nhất rồi. Bây giờ con mới biết có pháp dễ tu, học bộ này dễ tu. Học bộ Luận Câu Xá thấy hay, học bộ A Tỳ Đàm của Nam Truyền dễ tu như vậy, hay như vậy mà không được học, bây giờ con mới biết”.

Tức là mình cho suy nghĩ của mình đúng rồi, xưa nay mình cho là như thế, đó là thuộc về Thân kiến. Bây giờ mình phá ra, hoá ra không phải, hồi xưa mình biết một chút này thôi, bây giờ mình biết nhiều thứ hơn. Do sự tu tập, đầu óc của mình sáng ra dần, thì tự nhiên mình phá được. Lúc nào đó phá được [Thân kiến] thì mình thấy được chân lý Khổ – Không, Vô thường, Vô ngã, nhân quả rõ ràng. Thực ra Thân kiến là chân lý Khổ – Không, Vô thường, Vô ngã, là Tứ đế đó mà, đó là một cách thu gọn lại. Khi nào mình nhận thức rằng những gì mình thấy trong đời, mình suy nghĩ v.v… mấy điều đó không phải là ta, không có ta trong đó. Bởi vì điều gì cũng vô thường, hôm nay đúng nhưng chưa chắc ngày mai đúng, không phải là suy nghĩ hoàn toàn chính xác. Đó thuộc về Thân kiến, và Thân kiến này về Hành. Cho nên học bộ Luận Câu xá này hay lắm, giải quyết được cho chúng ta, chúng ta mới có nền tảng chính xác.

#Do tối thắng cố: bởi thuận theo sự tối thắng.

#Sở dĩ giả hà?: là vì sao như thế?

#Hành danh tạo tác, tư thị nghiệp tánh tạo tác nghĩa cường, cố vi tối thắng: #Hành là tạo tác, suy nghĩ, ta làm gì đó hay ta suy nghĩ; #Tư là ý nghĩa về sức mạnh của tính chất mà nghiệp được tạo ra. Cho nên việc làm của chúng ta là tạo tác, nhưng Tư là tính chất sức mạnh ý nghĩa của việc làm, đó là về nghiệp.

          Ví dụ chúng ta có suy nghĩ mạnh bao nhiêu, thì nghiệp mình gây mạnh hơn. Còn quý vị làm lờ đờ lờ đờ, ví dụ sáng ra buồn ngủ quá, vô công việc [sếp] kêu làm thư ký, viết một hồi rồi chả biết viết cái gì. Đó là không có lực mạnh, tức là sức mạnh, suy nghĩ không mạnh. Trưa về [có người hỏi] sáng nay làm gì đó? Mình kêu sáng nay vô làm việc, tao viết cái gì tao cũng không biết nữa. Tại vì sức mạnh của Tư không đủ, cho nên Tư là nghiệp, chủ nghiệp càng mạnh thì Hành uẩn [càng mạnh]. Cho nên người ta mới nói: Hành uẩn là sức mạnh về nghiệp, nghiệp được tạo ra là do sức mạnh của Tư. Tư là sự chú trọng tập trung của mình, suy nghĩ của mình. Mình tập trung càng mạnh bao nhiêu, thì nghiệp kết càng mạnh bấy nhiêu. Cho nên nhiều người tu hành, tại sao họ có những giấc mơ sợ điều này, điều kia.

Ví dụ như hồi xưa Thiện Trang cũng hay có, bây giờ thì đỡ rồi, tức là mình mơ đi thi, sao gần hết giờ rồi mà mất hết bài, ai lấy mất bài thi của mình, v.v… Điều đó là do ngày xưa mình dùng tâm lực vào việc đó quá mạnh. Tức là khía cạnh Hành uẩn của mình mạnh quá, mình chú ý vào việc đó quá, cho nên kết nghiệp sâu trong tâm mình. Vì vậy bây giờ có duyên thì nó trổ ra lại.

Bây giờ Thiện Trang hiểu ra thêm, là trước giai đoạn chuyển sang tâm thanh tịnh, những ấn tượng nào càng mạnh sẽ xuất hiện. Giống như trong hồ nước, bao giờ [nước] trong sẽ thấy dưới đáy đá lởm chởm càng rõ. Cho nên tu càng thanh tịnh tâm bao nhiêu, thì quý vị thấy rõ nghiệp của mình xưa nay tạo những gì hiện ra hết. Hồi xưa làm nghiệp ác gì, sợ gì, nhớ gì, yêu ai, hiện ra hết. Khổ lắm! Cho nên giai đoạn đó tu cực kỳ khó.

Vì hồi xưa mình tu mê mê mờ mờ, mình đâu có biết gì đâu, mình đang tu thì nó không hiện, nhưng bây giờ tâm mình càng vắng lặng bao nhiêu, thanh tịnh bao nhiêu, giống như nước trong hồ trong bao nhiêu thì lại hiện ra, cho nên mình thấy phiền não. Hồi xưa mình không thấy, bởi vì [giống như] rong rêu, nước đục che hết rồi. Nhưng bây giờ tâm thanh tịnh, thì những gì dưới đáy hồ hiện ra. Chính là nghiệp này, Tâm sở Tư hồi xưa mình dùng vào việc đó mạnh quá, đó là khía cạnh Hành uẩn. Cho nên sức mạnh của Hành uẩn ghê lắm, và như vậy mới tạo ra nghiệp, và nghiệp này chính là nghiệp quyết định. Cho nên ai tu thì nhớ giùm: Những lỗi lầm trong quá khứ, những việc ác, những ấn tượng sợ sệt, bất cứ điều gì, thì hãy lo quán ‘Không’ đi, quán về điều đó.

Thiện Trang chỉ cho người đồng tu cũng bị như Thiện Trang, dùng đề mục quán. Tại vì nằm mơ thấy đi thi hoài [cũng khiến] mình khó chịu, mệt lắm, đi thi làm bài không được, làm bài sắp hết giờ, hoặc đi thi mà trễ giờ… mệt lắm. Thiện Trang kêu sao cứ nằm mơ như vậy ta. Bây giờ mới quán Không, đề mục quán của Thiện Trang là trước khi đi ngủ thì nghĩ rằng: “Việc đi thi là ngày xưa rồi, bây giờ ta không thi nữa, bây giờ ta đã học xong hết rồi”. Cứ nghĩ vậy, nhớ về tu đề mục đó, đề mục đã thi rồi, bây giờ không thi nữa, không còn gì để thi nữa, không có gì để học nữa, nên [khi ngủ mơ] có hiện ra là đi thi thì cũng không sao. Có bữa cũng nằm mơ, vô một hồi nhớ: Môn này thi lâu rồi mà, hồi xưa mình nhớ mình đi làm rồi mà, bây giờ có đi học Đại học nữa đâu mà còn thi, vậy là hết giấc mơ, [giấc mơ] đó qua. Quý vị [phải] quán được như vậy. Bữa khác mơ tiếp cũng thi, đề mục vẫn vậy, nhưng thấy thi ở trường Phật học, Thiện Trang nhớ là mình tốt nghiệp trường Phật học rồi mà. Vừa nhớ tốt nghiệp trường Phật học rồi thì giấc mơ đó hết. Sau đó Thiện Trang nhớ Thiện Trang quán mấy lần sau này là hết, không thấy nữa, bây giờ thì hết rồi.

Cho nên đó là [cách] để đối trị Phiền não. Mỗi người có một Phiền não khác nhau, ví dụ quý vị là người phạm tội gì đó [thì quý vị quán về điều đó]. Như Thiện Trang có ấn tượng một việc trong đời là cắt cổ một con gà, cho nên Thiện Trang phải có đề mục quán về chuyện đó. Tức là Thiện Trang nói: Đó là ngày xưa mình mê, bữa đó không có cách nào, bữa đó mình đã bị trừng phạt, ra đường té xe chảy máu ướt cả cái áo, cho nên nhớ rồi, mình sám hối rồi. Nếu trong quá trình tu hành, nếu hiện tượng đó có hiện ra nữa thì mình nói là mình đã sám hối rồi, mình đã hồi hướng cho chúng sanh đó rồi, v.v… thì mình không áy náy trong tâm nữa.

Trong đời mình thế nào cũng có việc áy náy, cho nên Thiện Trang khuyên quý vị, chỉ cho quý vị bí quyết, trước khi vào tu là hãy nhớ mình đã từng có lỗi lầm gì, có [làm gì] chưa đúng với Giới luật, v.v… thì mình quán ‘Không’ trước. Tức là mình lấy đề mục là: Việc đó qua rồi, là quá khứ rồi. Hãy lấy Kinh Nhất Dạ Hiền Giả ra xài: “Quá khứ không truy tìm, tương lai không ước vọng, chỉ có hiện tại thôi”. Cho nên vào mới tu được, còn không thì vô là trạo cử, hối hận. [Rồi] cứ nhớ đến hồi xưa đó như vậy… Nếu tu theo thầy Thiện Trang sớm thì đỡ rồi, nếu hồi đó học điều này điều kia, v.v… là tốt rồi. Hoặc là hối hận, giá như lấy ông chồng khác là đỡ rồi, cứ kiểu đó là quý vị tu không được. Quý vị luôn luôn lấy đề mục quán là quá khứ đã qua rồi, lấy Kinh Nhất Dạ Hiền Giả ra xài. Kinh Nhất Dạ Hiền Giả là bộ Kinh cực kỳ quan trọng, xóa tan những gì thuộc về quá khứ, dù là ác, là thiện, dù đẹp hay xấu, dù tốt hay không tốt, những gì đã qua thì bỏ hết. Rồi tương lai chưa tới, cho nên đừng biết gì hết, chỉ biết hiện tại thôi, đừng suy nghĩ gì, thì quý vị tu được. Bộ Kinh Nhất Dạ Hiền Giả quan trọng lắm, quý vị nhớ giùm. Thật ra cứ nhớ quá khứ qua rồi, đừng truy tìm, tương lai đừng ước vọng làm chi, vì chưa tới. Chỉ có giây phút hiện tại là đây, là tốt nhất. Quý vị chánh niệm như vậy thì tu mới mau thành tựu, vượt lên hết. Quý vị cố gắng được điều đó là được.

#Thị cố Phật thuyết nhược năng tạo tác Hữu lậu Hữu vi danh Hành thủ uẩn: Vì thế đức Phật nói nếu có thể tạo ra Hữu lậu, Hữu vi thì được gọi là Hành thủ uẩn. Hành uẩn khó đến như vậy đó quý vị. Tức là mọi suy nghĩ của mình đều tạo ra pháp Hữu lậu là còn trong luân hồi, còn Phiền não; hoặc là Hữu vi tức là còn sanh còn diệt. Đó là Hành thủ uẩn hay Hành uẩn. Cho nên Hành uẩn này khó.

Hầu như mình suy nghĩ đều dính vô điều này, quý vị thấy có ai suy nghĩ vượt qua khỏi điều này không? [Không!] Cho nên dính vô Hành uẩn, Hành uẩn này sâu. Cho nên khía cạnh không có thiện không có ác, tức là mình làm với tâm xả thọ, xả thọ được thì Hành uẩn mới hết được. Còn không, mình làm bằng Tâm sở Tư thì cứ ghim vào, ghim vào.

Ví dụ như chúng ta bố thí, cứ nghĩ là đời sau ta có phước báu, rồi dính vô đó là đi luân hồi. Có Hữu vi, có tạo tác, có Hữu lậu rồi đó, mình làm mà phải làm sao vô tâm cơ. [Nhưng mình làm] không được. Rồi mình làm một việc bất như ý, ví dụ lỡ chửi người ta một cái là xong rồi đó, lại kết nghiệp với người ta rồi, nghĩ là tương lai chắc người ta trả thù mình v.v… thì ngay lúc đó là kết Hữu lậu và Hữu vi rồi.

Đó là Hành uẩn. Cho nên có thể nói [Hành uẩn] là khía cạnh thiện ác thì cũng đúng. Còn thoát khỏi Hành uẩn là bỏ ra, xả thọ đi, xả tức là không để, làm thì vẫn làm. Tức là thế gian này mình làm thế nào thì làm, trơ trơ ra, như thế mới thoát khỏi. Hành uẩn này [nói vậy] chứ không dễ đâu. Cho nên Thiện Trang nói đúng là bộ Luận Câu Xá định nghĩa rất chuẩn xác, và theo tinh thần trong kinh.

Tạm dịch: Như đức Bạc Già Phạm (đức Thế Tôn) ở trong Khế kinh nói sáu Tư thân là Hành uẩn, bởi thuận theo sự tối thắng. Vì sao như thế? Hành là sự tạo tác, Tư là ý nghĩa về sức mạnh của tính chất mà nghiệp được tạo ra (rõ ràng, Tư là tâm mình tập trung càng mạnh thì tạo ra sức mạnh càng nhiều. Vì những bậc A-la-hán dùng Tâm sở Tư này nhẹ nhàng, cho nên các ngài không kết nghiệp thiện ác ở trong đó, không kết nghiệp để đi vào luân hồi), nên là tối thắng. Vì vậy đức Phật nói nếu có tạo ra Hữu lậu Hữu vi thì được gọi là Hành thủ uẩn.

Bữa nay mình học bấy nhiêu là đủ rồi, đoạn sau nói về Khổ, Tập, Diệt, Đạo. [Quý vị] đừng xem thường bộ Luận Câu Xá này. Thiện Trang giảng, do [quý vị] chưa đủ nền tảng nên mới đầu học ngán vậy đó. Nhưng thực ra toàn những điều tuyệt vời, những điều phải nói là toàn đãi món ăn ngon, món ăn chất lượng. Giảng điều gì cũng chi tiết, đầy đủ, càng học thấy bộ Luận Câu Xá này càng hay. Mà nền tảng mình phải đủ thì mình mới thấy hay, còn không thì mình vô học cứ trơ trơ. Quý vị thông cảm, mới đầu học, do mình chưa đủ nền tảng nên học cứ trơ trơ, vì bộ Luận này ngài Thế Thân (Thiên Thân) viết rất chuẩn, viết ngôn ngữ cao chứ không viết theo ngôn ngữ cho người mới nhập môn. Cho nên mới vô là quất cho khó rồi, nhưng càng học về sau thì càng dễ, càng rõ ràng, càng chi tiết. Vì vậy Thiện Trang mới chọn bộ Luận Câu Xá này, chứ không là Thiện Trang chọn bộ khác rồi.

Nhưng để học được bộ này thì mình phải có nền tảng, vì vậy trong thời gian qua Thiện trang đã cấp cho quý vị nền tảng về A Tỳ Đàm, nền tảng từ kinh. Để quý vị có nền tảng rồi, bây giờ quý vị học Hành uẩn này thì rõ ràng, sáng lắm. Học Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức rõ rồi. Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức [mà] rõ thì mới phá Thân kiến được. Vì Thân kiến là cho sắc này là ta, có ta ở trong sắc đó, nó có trong ta. Tưởng cũng vậy, cũng có ta trong Tưởng, Tưởng đó là ta. Cứ cho như vậy là dính hết, Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức là dính hết. Mình phải hiểu Sắc là gì, Thọ là gì, Tưởng là gì, rồi mình tách ra, tách Ngã ra. Ngã kiến bay ra khỏi thì mới phá được Thân kiến.

Mà muốn được như vậy, ngoài hiểu ra thì phải tu tập từ từ. Nhưng cũng không sao đâu, cứ cắm đầu học đi, học đến lúc nào đó bùng nổ ra. Giống như nhóm lửa, quý vị cứ để lửa và củi đầy đủ, một hồi nó bùng lên là cháy. Đừng lo, nếu chưa làm được thì cứ từ từ mình giảm nhẹ. Quý vị tu bất cứ đề mục Thiền nào hoặc tu niệm Phật, tu [Pháp môn] gì cũng mạnh hết, và từ đó Phiền não bớt. Thiện Trang nhờ học bộ này nên Thiện Trang đối trị được nhiều Phiền não lắm. Thiện Trang thấy được lợi ích, và hy vọng quý vị cũng cảm nhận được như vậy.

Thời gian hôm nay cũng hết rồi, hẹn quý vị bữa khác. Mời quý vị chúng ta cùng hồi hướng.

“Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ

Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn

Pháp môn vô lượng thệ nguyện học

Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”.

“Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử cùng chúng sanh

Đều trọn thành Phật đạo”.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Nam Mô A Mi Đà Phật!