Responsive Menu
Add more content here...

Tập 127 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014 – 2017

 (Giảng lần thứ 4)

PHẨM THỨ BA: ĐẠI GIÁO DUYÊN KHỞI

Duyên Khởi Của Đại Giáo

TẬP 127

Chủ giảng: Đại lão Hoà thượng Thích Tịnh Không.

Giảng tại: Hiệp hội Giáo dục Phật Đà Hồng Kông.

Thời gian: Ngày 31 tháng 10 năm 2014.

Dịch giả: Vũ Văn Trà.

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

 

          Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, kính mời ngồi. Kính mời ngồi. Mời mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo:

          Bạch thầy A-xà-lê thương xót chứng minh! Con Đệ tử Diệu Âm, kể từ hôm nay, cho đến suốt đời, con xin quy y Phật, bậc lưỡng túc tôn; Con xin quy y Pháp, tôn quý trong pháp ly dục; Con xin quy y Tăng, hàng tôn quý trong tất cả chúng. (3 lần)

          Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 360, trang 360, trang 360, hàng thứ ba từ trái qua, đoạn thứ hai, 「念佛功德」Niệm Phật công đức”(Công đức của niệm Phật).

          【去來現在佛佛相念。為念過去未來諸佛耶。為念現在他方諸佛耶。何故威神顯耀。光瑞殊妙乃爾。】Khứ lai hiện tại Phật Phật tương niệm, vi niệm quá khứ vị lai chư Phật da? Vi niệm hiện tại tha phương chư Phật da? Hà cố uy thần hiển diệu, quang thụy thù diệu nãi nhĩ”(Chư Phật quá khứ tương lai hiện tại niệm nhau, [đức Thế Tôn] là niệm chư Phật quá khứ hay chư Phật vị lai, hay niệm chư Phật hiện tại phương khác? Tại sao uy thần hiển diệu, ánh sáng tướng lành thù thắng vi diệu như vậy).

          Đây là Tôn giả A Nan: thấy được đức Thế Tôn phóng quang hiện tướng lành. Lần phóng quang này là ngài A Nan: làm Thị giả nhiều năm mà chưa từng thấy qua. Lần phát ra ánh sáng này đặc biệt thù thắng, đức Phật thuyết pháp, biểu thị hội này: chắc chắn là diệu pháp thù thắng không gì bằng. Ánh sáng tướng lành đó từ đâu ra? Nghĩ rằng chắc là do niệm Phật. Ngài A Nan rất rõ ràng điểm này, trong tất cả Pháp môn, thì công đức của niệm Phật là thù thắng không gì sánh bằng, chắc hẳn là Phật Phật niệm nhau, nhưng không biết rõ: đức Thế Tôn là niệm tôn Phật nào. Chúng ta học tập kinh giáo, hy vọng được Phật lực gia trì, giúp chúng ta liễu giải chân thật nghĩa của Phật, là giống với điều được nói trên Kệ Khai Kinh: 「願解如來真實義」Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”. Mong được Phật lực gia trì. Đức Phật thuyết pháp cũng không ngoại lệ, cũng vậy, Phật rất khiêm tốn làm ra tấm gương tốt cho chúng ta, cũng khải thỉnh chư Phật Bồ-tát mười phương gia trì, khiến chính mình giảng được thấu triệt, giảng được sáng tỏ, để cho thính chúng nghe được rõ ràng, nghe được sáng tỏ, nghe hiểu được, đây là ý nghĩa của gia trì. Có hiệu quả chăng? Có hiệu quả. Vì sao? Bởi trong Đại thừa giáo Phật thường dạy, tất cả pháp từ tâm tưởng sanh. Tâm chúng ta chân thành, tâm chúng ta thanh tịnh, tâm chúng ta chí thành cung kính, thì cảm được uy thần của Tam Bảo gia trì. Trên thực tế, là trí huệ Bát-nhã trong: Chân Tâm Tự Tánh của chúng ta lưu lộ ra. Đó là nguyên lý của cảm ứng đạo giao. Thiện tương cảm với thiện, ác tương cảm với ác, đều có cảm ứng. Cho nên niệm lực không thể nghĩ bàn. Trước khi vào giảng kinh, hiển thị ra đức Thích Ca Mâu Ni Phật, trong tâm Ngài niệm điều gì? Hôm nay Ngài khai hội này, chúng ta nói Pháp hội, khai mở Pháp hội, Pháp hội tức là dạy học, giới thiệu Thế giới Cực Lạc cho chúng ta, tâm Ngài nghĩ điều gì? Khẳng định là nghĩ A Mi Đà Phật. Chúng ta có lý do tin tưởng, Tôn giả A Nan biết, câu hỏi của ngài là hỏi thay chúng ta, biết rõ mà vẫn hỏi. Một hỏi một đáp ấy, khiến cho những phàm phu chúng ta đây, chúng sanh nghiệp chướng sâu nặng, cũng có thể biết rõ Chân tướng sự thật. Đó là sự từ bi đến tột cùng.

          Chúng ta xem chú giải tiếp theo, chú giải của Niệm lão. 「去」Khứ” là quá khứ, 「來」lai” là tương lai, 「現在」hiện tại”. Đó là nói ba đời, quá khứ, hiện tại, tương lai. 「佛佛相念」Phật Phật tương niệm”, những lời này, mãi đến 「光瑞殊妙乃爾」quang thụy thù diệu nãi nhĩ”, giống với điều mà ngày nay đại chúng thấy được. Trong chú giải về Kinh Vô Lượng Thọ của Pháp sư Gia Tường nói: 「去來現在佛佛相念者」Khứ lai hiện tại Phật Phật tương niệm giả”(Chư Phật quá khứ tương lai hiện tại niệm nhau), đây là nói rõ: 「三世諸佛皆有化眾生之念」Tam thế chư Phật giai hữu hoá chúng sanh chi niệm”(Ba đời chư Phật đều có niệm giáo hoá chúng sanh). Ý nghĩa của câu nói này là gì? Chư Phật Như Lai thông đạt hiểu rõ, cũng tức là chứng được khắp vũ trụ, thuật ngữ của nhà Phật nói là biến Pháp giới hư không giới, ngày nay chúng ta gọi đó là toàn vũ trụ, toàn bộ vũ trụ, chính là ý nghĩa này, bao gồm quá khứ hiện tại tương lai, vô lượng vô biên cõi nước chư Phật ở mười phương, đều có Phật ở nơi đó giáo hoá chúng sanh. Phật xuất hiện, tất nhiên có chúng sanh, chúng sanh có cảm, thì Phật có ứng; chúng sanh hy vọng Phật đến dạy chúng ta, Phật liền hiện thân dạy bảo chúng ta; Chúng sanh ưu thích Bồ-tát dạy chúng ta, Phật liền hiện thân Bồ-tát dạy chúng ta. Phật không có Khởi tâm Động niệm, không có Phân biệt Chấp trước, vĩnh viễn là tuỳ chúng sanh tâm ứng sở tri lượng, trong tâm chúng sanh mong thế nào, thì Ngài liền biến hiện thế đó.

          Nhất định phải hiểu rõ chỗ này, hàm nghĩa của chữ Phật này, Phật là giác, giác ngộ triệt để, cho nên những gì mà Ngài hiện là Phật Bồ-tát. Dùng thuật ngữ của người hiện đại chúng ta để nói, thì những gì mà Ngài hiện là chánh, không phải là tà; những gì được hiện là thiện, không phải là ác; Là mặt tích cực, không phải mặt trái, do sự chân thành, tâm thiện, nguyện thiện của chúng sanh mà cảm được. Nếu khu vực này, tâm hạnh của chúng sanh không thiện, cách nghĩ, cách nhìn, cách làm của họ: đều thuộc về mặt trái, thì những gì cảm ứng của chúng sanh ở thế gian này: không phải Phật, sự cảm của bất thiện thì có ứng, ai đến ứng? Ma đến ứng, Yêu ma Quỷ quái đến ứng. 2500 năm trước, cùng thời đại với Khổng tử, có ngài Tả Khâu Minh từng nói, lời này trong Tả Truyện, một câu danh ngôn của ngài ấy nói: 「人棄常則妖興」Nhân khí Thường tắc yêu hưng”(Người bỏ đi đạo thường thì yêu ma hưng thịnh). Thường là đạo, là đức, là mặt tốt. Người nước ta từ xưa đến nay, ưa thích đơn giản rõ ràng, năm loại đức đó xưng là Thường. Ý nghĩa của Thường là vĩnh hằng không đổi, 2500 năm trước, thời đại đó của Khổng phu tử hữu dụng; Xa hơn trước mở rộng 2500 năm, thời đại Tam hoàng Ngũ đế vẫn có tác dụng; Hiện nay sau 2500 năm, có hiệu quả với xã hội này; 3000 năm về sau vẫn có tác dụng, vĩnh hằng bất biến đó gọi là Thường. Năm chữ nào? Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín là Ngũ thường, đó là vốn có trong Tự Tánh của chúng ta.

          Nhân là yêu thương người, tại sao phải thương người? Bởi quan hệ của chúng sanh: với chính mình là một thể. Tôi yêu thân thể của tôi, tôi yêu tai mắt của tôi, tôi yêu tay chân của tôi, vì sao? Bởi đó là một thể với tôi, không thể tách rời, người nào cũng biết điều đó. Nhưng toàn bộ vũ trụ, vạn sự vạn vật là một thể với chúng ta, người biết thì không nhiều, đức Phật biết, Bồ-tát biết, A-la-hán cũng biết, trước khi Phật giáo chưa truyền đến nước ta, lão Tổ tông của nước chúng ta, cổ Thánh tiên Hiền cũng biết. Lão tử đã từng nói: 「天地與我同根萬物與我一體」Thiên địa dữ ngã đồng căn, vạn vật dữ ngã nhất thể”(Thiên địa cùng gốc với ta, vạn vật là một thể với ta), hoàn toàn tương đồng với điều được nói trên kinh Đại thừa. Thời đại đó của Lão tử, Phật giáo chưa truyền đến nước ta, nước ta có Phật ở không? Có, có thể nói ra hai câu nói đó, người ấy chính là Phật. Người nước ta tôn trọng Thánh nhân, cho nên, Phật xuất hiện ở nước ta, dùng thân phận của Thánh nhân xuất hiện. Giống với 32 ứng của Bồ-tát Quán Thế Âm, nên dùng thân gì độ được thì hiện thân ấy, nên dùng thân Thánh Hiền độ được người, thì ngài liền hiện thân Thánh Hiền. Lão tử, Khổng tử là Thánh; Mạnh tử, Trang tử là Hiền. Người nước ta vô cùng tôn kính Thánh Hiền, quý ngài biết: vũ trụ vạn vật là một thể với chính mình, cho nên sanh khởi [tâm] từ bi đồng thể, từ bi chính là tâm yêu thương. Đồng thể đại bi, bi là tâm thương xót, thấy chúng sanh đang chịu khổ, thì giống với chính mình đang chịu khổ. Làm sao giúp họ lìa khổ được vui, tâm này gọi là tâm bi, gọi là tâm đại bi. Giúp họ giác ngộ, giúp họ quay đầu, giúp họ hạnh phúc, đó gọi là tâm từ. Từ nghiêng về ban vui cho họ; bi thiên về cứu khổ của họ, đều là tâm yêu thương, ái tâm chân thành. Điều đầu tiên trong Ngũ thường là Nhân, là nhân ái, nghĩ đến chính mình liền nghĩ đến người khác, người khác đồng thể với ta, Nhân biểu thị ý nghĩa đó.

          Nghĩa đại biểu tuân theo lý, người phải thuận theo quy luật của đại tự nhiên, không thể làm trái tự nhiên, đó là Nghĩa. Phụ tử hữu thân, tình thân ấy là Nghĩa; Phu phụ hữu biệt, biệt ấy là Nghĩa; Quân thần hữu Nghĩa, trưởng ấu hữu tự là Nghĩa, bằng hữu hữu tín là Nghĩa, không có Nghĩa, thì làm sao người đứng ở xã hội? Cho nên Nghĩa là theo lý, phải tuân theo đạo lý, không thể trái ngược đạo lý. Đạo lý chính là quy luật của đại tự nhiên, Xuân sanh, Hạ trưởng, Thu thâu, Đông tàng, đó là bốn mùa của một năm, là quy luật tự nhiên. Tâm hạnh của người tương ưng với quy luật tự nhiên, thì đạt được hạnh phúc, được tự tại. Chúng ta từ [khi] sanh ra đến 20 tuổi, đó là mùa xuân của đời người. Xuân sanh, cần đem đạo lý làm người, nghĩa vụ làm người, làm rất là rõ ràng, vô cùng sáng tỏ, thành tựu trí huệ, đức hạnh của chính mình, thành tựu tâm bi của chính mình. Trong Phật pháp nói tâm Bồ-đề, ở thế tục thông thường nói, là như Chủ tịch Mao đã nói: toàn tâm toàn ý vì nhân dân phục vụ, nếu phát tâm ấy, thì tâm ấy chính là tâm Bồ-đề. Tâm Bồ-đề rộng lớn hơn ý nghĩa đó, cũng là toàn tâm toàn ý: phục vụ cho tất cả chúng sanh, phạm vi chúng sanh lớn hơn nhân dân. Trong mười Pháp giới, nhân dân là cõi người, ngoài cõi người còn có chín Pháp giới. Còn chúng sanh? Bao gồm toàn bộ chín Pháp giới, từ Pháp giới Phật, Pháp giới Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác, dưới là chư thiên, cõi người, Súc sanh, Ngạ quỷ, Địa ngục, toàn bộ hợp lại là mười Pháp giới. Thập pháp giới đều là do chúng duyên hoà hợp mà sanh. Cho nên, Phật giáo Đại thừa: dạy người phải phát tâm lớn ấy, toàn tâm toàn ý phục vụ cho chúng sanh mười Pháp giới. Trong thập Pháp giới, đặc biệt là Lục đạo, sáu đường mê thì không giác, trong sáu đường, khiến người thương xót nhất chính là ba đường ác. Điều đó so với toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân thì ý nghĩa sâu hơn, rộng hơn, là phát tâm rộng lớn.

          Nhân Nghĩa rồi, tiếp theo là Lễ, Lễ là lễ tiết, lễ phép vô cùng quan trọng. Có lễ phép, thì toàn bộ xã hội có trật tự, có quy củ, Khởi tâm Động niệm, lời nói hành vi: của nam nữ già trẻ đều có phép tắc. Khuôn phép đến từ đâu? Là đến từ trong pháp tắc tự nhiên, không phải do người nào đó thiết lập ra, chẳng phải là học thuật của người nào, không phải, là quy luật của đại tự nhiên, là vốn có trong tự nhiên, từ trong Tự Tánh lưu lộ ra. Tự Tánh là gì? Là 「清淨平等覺」‘thanh tịnh bình đẳng giác’ ở trên tựa đề Kinh này, chính là Tự Tánh, chính là Chân Tâm. Chân Tâm là thanh tịnh, không có ô nhiễm; Chân Tâm là bình đẳng, không có dao động; Chân Tâm vĩnh viễn giác ngộ, sẽ không mê hoặc. Thanh tịnh bình đẳng giác: chính là Chân Tâm, là Tự Tánh. Tất cả đạo lý: đều do từ nơi ấy mà lưu lộ ra. Phật giáo Đại thừa học điều gì? Khôi phục thanh tịnh bình đẳng giác: vốn có của chúng ta mà thôi. Khôi phục tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh hiện tiền, trong Phật giáo xưng quý vị là A-la-hán; Có thể khôi phục tâm bình đẳng, càng cao hơn thanh tịnh một tầng, bình đẳng, người ấy được gọi là Bồ-tát; nâng lên nữa, Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh chính là giác, người đó được gọi là thành Phật. Quý vị xem trên tên Kinh, thanh tịnh của A-la-hán, bình đẳng của Bồ-tát, Đại giác của chư Phật Như Lai, đều ở trên đề Kinh. Đó là nói từ trên tu nhân, từ trên phương diện học tập lập ra cấp bậc khác nhau. Nửa đoạn trước của tên Kinh là giảng từ trên quả, tức là quý vị có thể chứng đắc Đại thừa, Đại thừa là trí huệ, là trí huệ rốt ráo viên mãn vốn có của Tự Tánh; thứ hai là vô lượng thọ, vô lượng thọ là nói đức năng, quan trọng nhất, thù thắng nhất trong đức năng, gọi là đức hàng đầu, chính là thọ mạng. Nếu không còn tuổi thọ nữa, thì tất cả toàn bộ đều tan vỡ, thọ mạng là đức hàng đầu quan trọng nhất của: chư Phật Bồ-tát cho đến chúng sanh chín Pháp giới. Câu tiếp theo là trang nghiêm, trang nghiêm là tốt đẹp, trang nghiêm chính là 「止於至善」chỉ ư chí thiện’: được nói trong sách Đại Học.

          Về sách Đại Học, khi Phật giáo chưa đến nước ta, thì lão Tổ tông, cổ Thánh tiên Hiền của chúng ta, quý ngài tuỳ thuận đại tự nhiên: mà ngộ ra được đạo lý, đem điều đó làm cương lĩnh học tập cho chúng ta. 「大學之道,在明明德」Đại học chi đạo, tại minh minh đức”, ‘minh minh đức’ chính là: Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh. Đại từ đại bi được hiển lộ ra: từ trong Tự Tánh chính là ‘thân dân’, ‘thân dân’ chính là rộng độ chúng sanh, nguyện đầu tiên trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện: 「眾生無邊誓願度」Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. ‘Thân dân’ là đại từ đại bi, giúp chúng sanh lìa khổ được vui. Dựa vào lý luận nào: để phát ra đại nguyện đó? Lý luận ấy chính là: chúng sanh là một thể với ta. Cho nên, sau khi Minh tâm Kiến tánh, thì nguyện vọng đó trong Tự Tánh: tự nhiên sanh khởi lên. Đại Học chi đạo, tại minh minh đức, từ minh minh đức lưu lộ ra thân dân, 「親民」thân dân” là đại từ đại bi, rộng độ chúng sanh, 「止於至善」chỉ ư chí thiện” là thực hiện, thấy được kết quả, chúng sanh như thế nào? Thật sự lìa khổ đuợc vui. Lìa cứu cánh khổ, được cứu cánh vui, đó là gì? Là vãng sanh Thế giới Cực Lạc, thân cận A Mi Đà Phật, đạt đến thiện nhất. Dùng phương pháp nào? Dùng dạy học. Cho nên Phật pháp là giáo dục.

          Sau khi đức Thích Ca Mâu Ni Phật kiến Tánh: đã bắt đầu dạy học, dạy cả đời. Ngài 79 tuổi viên tịch, 30 tuổi khai ngộ bắt đầu dạy học, từ 30 đến 79 tuổi, giảng kinh dạy học 49 năm. Dùng lời của người hiện nay để nói, thì ngài là thân phận gì? Người thời nay nói là: Người làm công tác nghĩa vụ đa nguyên văn hoá, Ngài là thân phận như vậy. Ngài là Giáo sư, chúng ta xưng Ngài là Bổn sư, chúng ta tự xưng là Đệ tử, quan hệ của chúng ta với đức Thích Ca Mâu Ni Phật: là quan hệ thầy trò, Đệ tử là Học trò, phải làm rõ điều này. Người bây giờ nói đa nguyên văn hoá, ý nghĩa đó là gì? Ngài dạy học không phân biệt quốc tịch, bất luận quý vị là người nước nào, bất luận quý vị là người chủng tộc nào, cũng chẳng kể quý vị tín ngưỡng Tôn giáo nào, đều không liên quan, quý vị chỉ cần chịu học tập với Ngài, thì Ngài đều thu nhận quý vị làm Học trò. Làm Học trò của Phật, không cần thay đổi Tôn giáo tín ngưỡng, ở trên kinh Phật rất nhiều, như là Bà La Môn giáo, Bà La Môn là Tôn giáo, rất nhiều tín đồ của họ: học tập theo đức Thích Ca Mâu Ni Phật, đức Thích Ca Mâu Ni Phật là thầy, chính mình là học trò. Bởi Ngài không phải là Tôn giáo, nên Ngài khuyên người khác: không cần thay đổi tín ngưỡng Tôn giáo. Học Phật, thì với những chỗ này, cần phải làm rõ ràng, làm sáng tỏ. Hiểu rõ rồi, thì chính mình có thể tự độ; Chưa sáng tỏ, thì theo Phật học tập. Sau khi sáng tỏ, chính mình độ chính mình, không khó! Buông xuống Chấp trước thì chứng A-la-hán, trong nền giáo dục của đức Phật: đã cầm được học vị thứ nhất; Lại dũng mãnh tinh tấn, buông xuống Phân biệt, quý vị là Bồ-tát, Bồ-tát là học vị thứ hai; Sau cùng lại buông xuống Khởi tâm Động niệm, quý vị lấy được học vị tối cao, là Phật-Đà, là điều thứ ba, học vị cao nhất. Cho nên, Phật-Đà, Bồ-tát, A-la-hán: là danh xưng học vị của giáo dục Phật-Đà. Trong kinh Đại thừa thường nói: 「一切眾生本來是佛」nhất thiết chúng sanh bổn lai thị Phật”(tất cả chúng sanh trước nay là Phật), 「一切眾生皆有佛性」nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh”(tất cả chúng sanh đều có Phật tánh), tương lai đều sẽ làm Phật. Ngài nói rất rõ ràng, rất sáng tỏ. Nếu với những đạo lý ấy, mà không làm rõ ràng, làm sáng tỏ, thì chúng ta không biết bắt đầu học từ đâu, học từ chỗ nào? Phật giáo không mê tín, Phật giáo là phá mê khởi tín, niềm tin đó: là được xây dựng trên cơ sở của trí huệ, đó không phải mê tín, chẳng phải mù quáng.

          Ngày nay đức Thích Ca Mâu Ni Phật: bắt đầu kiến lập pháp hội này, dùng lời của người hiện đại để nói, thì hôm nay Ngài sắp mở một môn học. Thầy mở môn học đó ở trường học, môn học ấy giới thiệu Thế giới Tây Phương Cực Lạc, thù thắng trang nghiêm không gì sánh bằng, nên trong tâm hoan hỷ. Bởi vì 84 ngàn Pháp môn, điều kiện yêu cầu rất nhiều, chúng ta ở đời này đều làm không được, tu những Pháp môn đó: cả đời này của quý vị không thể thành tựu, đời sau kiếp sau vẫn phải tiếp tục tu. Nhưng đời sau kiếp sau có được thân người không: là vấn đề lớn; được thân người có thể nghe được Phật pháp không: lại là vấn đề lớn. Phương pháp này của Tịnh tông đơn giản, nam nữ già trẻ, người lớn trẻ nhỏ, từ học rộng nghe nhiều, hiện nay nói là học vị Tiến sĩ, Phật pháp nói là Bồ-tát, Pháp thân Bồ-tát, bên dưới đến chúng sanh ở Địa ngục, mỗi người đều học được. Hơn nữa ở ngay trong một đời, quý vị có thể hiểu được phương pháp, thâm nhập một môn, thì chẳng có ai mà không thành tựu, nên Phật hoan hỷ! Phật hoan hỷ [mong] tất cả chúng sanh: tới Thế giới Tây Phương Cực Lạc để làm Phật, đó là sự việc mà đức Phật hoan hỷ nhất. Làm Phật tốt, làm Bồ-tát tốt, ngày ngày dạy học, ngày nào cũng nâng cao chính mình, ngày nào cũng giúp người khác phá mê khai ngộ, công việc đó hạnh phúc không gì sánh được! Khiến cho chúng ta hiểu rõ chân tướng sự thật. Chân tướng sự thật đều là thuần tịnh thuần thiện.

          Chúng ta thấy được thế gian có rất nhiều người ác, bất thiện, sao lại nói thuần tịnh thuần thiện? Thuần tịnh thuần thiện là nói từ trên Tánh đức, 「人之初性本善」nhân chi sơ, tánh bổn thiện”, cũng không nói sai chút nào. Không thiện là do Tập tánh tạo thành, tập tánh là do họ hướng đến bên ngoài để học. Sự bất thiện của xã hội hiện nay nhiều, họ đều học hiểu rồi, trẻ nhỏ cũng biết học rồi, do ai dạy họ? Tivi dạy họ, vi tính dạy họ, đồ chơi điện tử dạy họ. Những công cụ Khoa học này vốn là tốt, nhưng người ta đã dùng sai, không dùng mặt tích cực, mà hoàn toàn dùng mặt trái, cho nên đã dạy hư mọi người, dạy hư xã hội, dạy hư thế giới. Chúng ta học Phật, học văn hoá truyền thống, làm sao ứng phó đối với sự việc này? Vào lúc tôi còn trẻ, thầy giảng rất rõ ràng cho tôi: về sự lợi hại của những thứ ấy, tôi hoàn toàn đã nghe hiểu. Tôi dùng phương pháp nào? Không tiếp xúc. Hơn 50 năm nay tôi chưa có xem tivi, chưa có xem thời sự, báo chí tạp chí, truyền hình, không đi đến nơi vui chơi. Mỗi ngày đọc sách Thánh Hiền, niệm A Mi Đà Phật, thiên hạ mỗi ngày đều thái bình, phát sanh rất nhiều việc nhưng tôi không biết, cho nên thân tâm của tôi: sống trong thái bình thịnh thế. Rất nhiều rất nhiều mặt trái, tôi không có thấy được, không có nghe được. Những gì mà tôi thấy được là kinh luận, là giáo huấn của cổ Thánh tiên Hiền, đều là điều tốt, chẳng có gì là không tốt, tôi dùng phương pháp đó thành tựu chính mình.

          Người học Tịnh tông: tu Hạnh Phổ Hiền, phẩm thứ hai trong bộ Kinh này của chúng ta: là Đức Tuân Phổ Hiền, vẫn là thuộc về Phẩm Tự, vẫn chưa phải là Chánh Tông. Do đây có thể biết, tấm gương của người học Tịnh tông là ai? Là Bồ-tát Phổ Hiền, là tấm gương tốt của chúng ta. Người nước ta biết Tịnh Độ tông, Sơ tổ của Tịnh Độ tông là ai? Tầng lớp của quý ngài mỗi mỗi khác nhau. Trước tiên chúng ta phải nói đến Pháp giới, khắp Pháp giới hư không giới người đầu tiên đề xướng: trì danh niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ là ai? Sơ tổ của Pháp giới, chư vị có biết chăng? Là Bồ-tát Đại Thế Chí, Bồ-tát Đại Thế Chí: chính là tu Pháp môn niệm Phật thành Phật, là Sơ tổ của Pháp giới. Sơ tổ của Thế giới Ta Bà là ai? Đây là đã nhỏ, chỉ một thế giới. Vũ trụ lớn này: bao gồm bao nhiêu hành tinh. Chư vị Tổ sư Đại đức: chiếu theo ba kinh một luận của Tịnh Độ, nói ra cho chúng ta, Sơ tổ của Tịnh Độ tông của Thế giới Ta Bà, mọi người đều công nhận là Bồ-tát Phổ Hiền. Sáng tỏ vượt trội trong Kinh Hoa Nghiêm, khi đức Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện thành Phật, bộ kinh được thuyết đầu tiên chính là: Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, là giảng ở trong định, không phải ở nhân gian, nhân gian nghe không hiểu, bộ Kinh ấy toàn là cảnh giới của Pháp thân Bồ-tát, nghĩa lý quá sâu. Châu Diêm Phù Đề là nói trái đất của chúng ta đây. Tuy người trên trái đất cũng rất thông minh, nhưng đối với bộ Kinh đó thì họ xem thấy trong mắt: mờ mịt chẳng biết gì, bởi quá sâu. Nhưng có lý luận căn cứ học tập dễ hiểu, vậy thì không khó. Tuy rằng tin, có thể xây dựng niềm tin, nhưng khoảng cách đến sự thành tựu thật sự, vẫn là có một khoảng cách. Song khoảng cách ấy, nếu có hoàn cảnh tốt, thiện hữu tốt, giúp đỡ quý vị có thể bù đắp, thì ngay trong đời này quý vị chắc chắn được sanh, nhất định được vãng sanh. Ở trong Giáo pháp một đời của đức Thích Ca Mâu Ni Phật, tìm không ra: Pháp môn bình đẳng với Pháp môn này, không có nữa. Cho nên, trì danh niệm Phật đã trở thành: việc lớn đứng đầu trong Phật pháp, không có gì sánh bằng. Đức Phật muốn giảng Kinh này, quý vị thấy Ngài phát ra ánh sáng, ánh sáng được phát ra kỳ diệu đặc biệt thù thắng, trước nay không có lần phóng quang nào: có thể so sánh với sự phóng quang của: đức Thích Ca Mâu Ni Phật hôm nay. Vì sao ngày nay Ngài phóng quang? Đức Thích Ca Mâu Ni Phật bình thường không phát ra, chính là phát tâm giảng bộ Kinh này, đã cảm động tất cả chư Phật Như Lai: trong khắp Pháp giới hư không giới, đã cảm động chư thiên trời người, đã cảm động: lão Tổ tông trong vô lượng kiếp đến nay của chúng ta, còn gì tuyệt vời hơn! Sự thù thắng như vậy: không có ngôn ngữ nào có thể biểu đạt, đó là thật, chẳng phải giả, chỉ có khế nhập cảnh giới, cổ nhân gọi là nóng lạnh tự biết, không nói ra được. Uống một ly nước, nước ấy là ấm hay là nóng, không ai nói ra được, vì sao vậy ? Bởi tiêu chuẩn của mỗi người khác nhau. Cách tốt nhất là: quý vị uống một ngụm, ấm lạnh tự biết, quý vị liền rất rõ ràng. Quý vị rất sáng tỏ, quý vị cũng nói không ra, bởi vì tiêu chuẩn của quý vị: cũng chẳng phải là tiêu chuẩn của người khác.

          Nhưng thuyết một Pháp môn, nếu tương ưng với Pháp môn đó, thì người được thành tựu lớn, họ tu Pháp môn đó sẽ thành tựu, tương ưng với họ vậy thì thuận tiện hơn. A Mi Đà Phật niệm A Mi Đà Phật, chúng ta niệm A Mi Đà Phật: thì được uy thần của A Mi Đà Phật gia trì, chúng ta học bộ Kinh này sẽ dễ hiểu, sẽ dễ dàng khế nhập, là đạo lý như vậy. Đức Phật sắp giảng bộ Kinh này, hoặc là chúng ta phát tâm: vì đại chúng mà giảng bộ Kinh này, quý vị làm thế nào? Nếu quý vị niệm A Mi Đà Phật, thì được A Mi Đà Phật gia trì. Quý vị xem đức Thích Ca Mâu Ni Phật giảng Kinh này, phóng quang hiện tướng lành, niệm A Mi Đà Phật gia trì, Ngài mới giảng được hay như thế. Nếu không được Phật gia trì thì không được. Nhất định phải biết điều này, phải khiêm tốn, phải cung kính. Ấn Tổ nói rất hay, 「一分誠敬」nhất phần thành kính”(một phần thành kính), tức là chân thành cung kính, 「得一分利益」đắc nhất phần lợi ích”(được một phần lợi ích), quý vị nghe được, đọc được có thể vào một phần; Quý vị có mười phần chân thành cung kính, thì quý vị có thể được mười phần; Nếu quý vị là có vạn phần chân thành cung kính, thì quý vị được vạn phần. Quý vị có được bao nhiêu, thì hoàn toàn xem quý vị: có bao nhiêu phần tâm chân thành cung kính, cũng không sai chút nào. Không có sự chân thành cung kính, dù A Mi Đà Phật đến dạy cho quý vị, thì quý vị cũng nghe chẳng hiểu, quý vị cũng không được lợi ích.

          Chúng ta biết vào thời đại hiện nay, người giảng bộ Kinh này không nhiều; nghe bộ Kinh này, người thật sự nghe hiểu cũng không nhiều. Nguyên nhân là gì? Bởi người hiện nay thích nghi ngờ, người thời nay không thật thà, đều muốn ở trong kinh văn: dẫn ra một chút thiếu sót, đi lựa xương trong trứng gà, họ có tâm lý khác thường như vậy. Cho nên, nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa là khó rồi. Họ không biết: tất cả chúng sanh vốn là một thể với Phật, đồng tâm đồng đức, đồng nguyện đồng hạnh, họ không biết. Vì thế lợi ích đạt được là không nhiều. Lợi ích lớn nhất mà họ được là gì? Là trong A-lại-da thức: có Chủng tử của A Mi Đà Phật, có Chủng tử của Tịnh Độ Thế giới Cực Lạc. Chủng tử ấy là hạt giống Kim cang, vĩnh viễn không diệt, đời sau kiếp sau lại gặp được, họ sẽ hoan hỷ với Pháp môn này, được Phật lực gia trì, nếu họ là chân thật tín nguyện trì danh, thì họ sẽ thành tựu. Ngày nay chúng ta gặp được Pháp môn này: hoan hỷ, tiếp nhận, không nghi ngờ, thật thà niệm Phật, là nguyên nhân gì? Do thiện căn đã trồng từ đời đời kiếp kiếp trong đời quá khứ, lần này mới chín muồi. Lần này chưa chín muồi thì sao? Không nên gấp, lại tiếp tục làm nóng thêm một chút, đời sau chín muồi. Nói chung là: không uổng công, đó là lợi ích chân thật, bất luận có căn tánh hay không, gặp được đều tốt, đều rất đáng khen ngợi, đáng được hoan hỷ.

          「光光相照,又智智相照,故云相念也。Quang quang tương chiếu, hựu trí trí tương chiếu, cố vân tương niệm dã”(Quang minh chiếu nhau, và trí trí chiếu nhau, nên nói là niệm nhau). Khởi cảm ứng đạo giao với A Mi Đà Phật, trong tâm Thích Ca Mâu Ni Phật có A Mi Đà Phật, trong tâm A Mi Đà Phật có Thích Ca Mâu Ni Phật, tâm tâm tương ưng đã thông rồi, đó  được gọi là gia trì. Tôi nghĩ nhớ một người: sẽ có cảm ứng với người đó. Thường thấy nhất, thời xưa có, hiện nay cũng có, là tình mẫu tử. Người mẹ lúc nào cũng nhớ đến người con, đặc biệt người con còn rất nhỏ, đứa trẻ 3 tuổi, 5 tuổi, bất kể đến nơi nào? Tâm cô ấy đều mong nhớ con của cô. Người con đó có cảm ứng, người con cũng nhớ mẹ. Cùng một đạo lý, chúng ta niệm Phật, niệm Bồ-tát, niệm cổ Thánh tiên Hiền, niệm lão Tổ tông, niệm người mà chúng ta cảm phục nhất, bội phục nhất, đều sẽ khởi cảm ứng. Nếu người ấy cũng niệm lại, thì cảm ứng rất rõ ràng; Ta niệm họ, họ không niệm ta, thì nơi ta đây có cảm ứng, còn nơi đó của họ không thể hiện tiền cảm ứng. Nếu hai bên niệm nhau, thì cảm ứng sẽ rất rõ ràng, đó là thật, chẳng phải giả. Trước khi chúng ta vào Khai Kinh nên niệm Tam Quy Y, dùng tâm chân thành, tâm cung kính, tâm thanh tịnh: để niệm văn phát nguyện Tam Quy: liền được sự gia trì của Phật, để giảng rõ ràng, giảng sáng tỏ hội Kinh này. Rất nhiều đồng học giảng kinh, không kể tại gia hay xuất gia: đều có cảm ứng đó, chẳng phải giả. Tâm càng thành kính thì càng nhiều cảm ứng, lúc quý vị đang giảng, giảng ra rất nhiều ý nghĩa, không phải do quý vị chuẩn bị trước, quý vị không chuẩn bị nhiều như vậy, làm sao đến lúc đó có thể tự nhiên nói ra được, sau khi giảng xong hỏi quý vị không biết, bảo quý vị giảng lại, thì giảng không ra. Nên được gia trì, thì có lợi ích chân thật đối với mình và người khác. Cho nên đó gọi là tương niệm.

          Trong sách Chân Giải nói, 「去來現佛等」khứ lai hiện Phật đẳng”(chư Phật quá khứ vị lai hiện tại v.v..), [nghĩa là] chư Phật quá khứ, tương lai, hiện tại, 舉三世佛相念以推度今佛所念。」cử tam thế Phật tương niệm, dĩ suy độ kim Phật sở niệm”(nêu Phật ba đời niệm nhau, để suy ra điều mà đức Phật niệm lúc này). Chư Phật đều niệm Phật, niệm A Mi Đà Phật, chính là niệm tất cả chư Phật trong mười phương ba đời, không bỏ sót một vị nào. Vì sao vậy? Bởi danh hiệu A Mi Đà Phật, là danh hiệu chung của toàn bộ tất cả chư Phật, đó là nói từ trên Pháp tánh. Chúng ta xưng danh hiệu Thích Ca Mâu Ni Phật, đó là nói từ trên Tướng; Chúng ta niệm A Mi Đà Phật, là nói từ trên Tánh. Bốn chữ A Mi Đà Phật này, là dịch âm từ tiếng Phạn, nếu phiên dịch theo tiếng Phạn, thì A dịch là Vô, ý nghĩa của vô; Mi Đà dịch là lượng, A Mi Đà nghĩa là vô lượng; Phật dịch là giác, hoặc dịch thành trí huệ, nên ý nghĩa danh hiệu là vô lượng trí huệ, vô lượng giác ngộ. Vô lượng trí huệ, vô lượng giác ngộ, thì người ấy được gọi là Phật, cho nên Ngài là danh hiệu chung. Đâu có tôn Phật nào mà không phải là vô lượng trí, chẳng phải là vô lượng giác? Hết thảy như vậy. Cho nên một câu A Mi Đà Phật, đã bao hàm toàn bộ tất cả danh hiệu chư Phật. Quý vị niệm danh hiệu chư Phật thì được ít sót nhiều, niệm một câu A Mi Đà Phật thì đã niệm được toàn bộ, một vị cũng không sót mất. Trong Kinh Hoa Nghiêm nói: 「一即是多多即是一」Nhất tức thị đa, đa tức thị nhất”(Một tức là nhiều, nhiều tức là một). Một chính là A Mi Đà Phật, nhiều chính là tất cả chư Phật. Tất cả chư Phật vị nào cũng là vô lượng giác, vị nào cũng là vô lượng trí, điều này không giả chút nào, Minh tâm Kiến tánh thì vào câu lạc bộ đó. Nên trong sách Chân Giải nêu ra ba đời chư Phật niệm nhau, chắc hẳn điều mà nay đức Phật niệm. Hiện nay trước khi đức Thích Ca Mâu Ni Phật: tuyên giảng bộ Kinh lớn này, phát ánh sáng hiện tướng lành, rõ ràng đạt được sự gia trì của chư Phật Như Lai, Phật gia trì Phật, khiến tướng lành của Ngài thù thắng đặc biệt, trước chưa từng có. Đại chúng dự hội thấy được rồi, niềm tin tràn đầy đối với đức Phật, không còn chút nghi ngờ nào nữa, đó là tác dụng của sự phóng quang hiện tướng lành, giúp mọi người sanh khởi niềm tin.

          Tiếp theo lại nêu từ sách Hợp Tán, đó toàn là của Nhật Bản, 「《合贊》曰我以三世諸佛相念類知」Hiệp Tán viết: Ngã dĩ tam thế chư Phật tương niệm, loại tri”(Trong sách Hợp Tán viết: Ta với chư Phật ba đời niệm nhau, tương tự thì biết), tương tự thì biết, 「得無今佛亦念諸佛đắc vô kim Phật diệc niệm chư Phật?”(phải chăng nay Phật cũng niệm chư Phật)? bởi vì chư Phật ba đời niệm nhau, luôn luôn niệm đến, chắc hẳn nay đức Phật cũng niệm chư Phật. 「現此奇相有何故耶Hiện thử kỳ tướng, hữu hà cố da”(Hiện tướng lạ ấy, là lý do gì)? Hiện tướng hảo kỳ diệu đặc biệt thù thắng như vậy, là nguyên nhân gì? 「經云威神顯耀光瑞殊妙」Kinh vân: uy thần hiển diệu, quang thuỵ thù diệu”(Trong Kinh dạy: uy thần hiển diệu, quang minh tướng lành thù thắng vi diệu), đức Phật thường nói hai câu này ở trong Kinh. Tiếp theo lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ giải thích cho chúng ta, 「表所現色相顏巍巍」biểu sở hiện sắc tướng, quang nhan nguy nguy”(biểu thị sắc tướng được hiện, hào quang dung nhan rực rỡ tối thắng), nguy nguy là miêu tả sự rộng lớn, 「威神難測放光現瑞殊勝絕妙十方寶剎映現光中是故《合贊》稱為超過諸佛也」uy thần nan trắc, phóng quang hiện thuỵ, thù thắng tuyệt diệu, thập phương bảo sát ánh hiện quang trung, thị cố Hiệp Tán xưng vi, siêu quá chư Phật dã”(uy thần khó đo lường, phóng quang hiện tướng lành, thù thắng tuyệt diệu, trong quang minh hiện ra cõi báu mười phương, cho nên [trong sách] Hợp Tán khen là: vượt qua chư Phật). Trên kinh của Đại thừa giáo thường nói: 「佛佛道同無有高下」Phật Phật đạo đồng, vô hữu cao hạ”(Phật với Phật đạo bằng nhau, không có cao thấp), thật sự là pháp bình đẳng, vì sao có thể vượt hơn chư Phật? Đó là lời khen ngợi, cũng là lời chân thật, sự xưng dương tán thán ấy không phải khen giả, chắc chắn có sự thật. Thù thắng nhất: là cõi nước của chư Phật Như Lai trong mười phương, đều thấy được ở trong quang minh của đức Thế Tôn, tướng này quả thật vô cùng hiếm có kỳ diệu đặc biệt. Quốc sư Hiền Thủ: trong Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán: nói về ba loại chu biến, loại thứ nhất là 「周遍法界」Chu biến Pháp giới”, đó là thật, đó là nói Tự Tánh, cũng bao gồm Pháp tướng. Vì sao vậy? Bởi trong Tướng có Tánh, trong Tánh có Tướng, Tánh Tướng không chia ra, Tánh là thể, Tướng là do Tánh mà hiện, chúng ta giảng Thể, Tướng, Dụng, quả thật là một thể. Chúng ta động ý niệm, biến khắp Pháp giới, không kể là niệm thiện hay niệm ác, là niệm Phật hay niệm người, niệm đó cũng biến khắp Pháp giới. Chứng minh điều gì? Pháp giới là một thể, tự nhiên liền biến khắp. Loại thứ hai là 「出生無盡」Xuất sanh Vô tận”, loại thứ ba là 「含容空有」Hàm dung Không Hữu”, ba câu này đều là miêu tả Tánh đức. Tự Tánh không thể nghĩ bàn, trong Tự Tánh không có mê ngộ, người ngộ có, người mê cũng có, chỉ là sự khởi tác dụng của người ngộ, quý ngài rõ ràng, quý ngài sáng tỏ; Còn sự khởi tác dụng của người mê, họ không rõ ràng, không sáng tỏ, như vậy mà thôi. Chúng ta thật sự đã học Đại Kinh, biết cảnh giới này là Chân tướng của vũ trụ, danh từ trên Kinh Phật gọi là Chư pháp Thật tướng, trên Kinh Bát Nhã thường nói Chân tướng của tất cả pháp. Ý niệm vừa động, biến khắp Pháp giới, chúng ta niệm A Mi Đà Phật, làm sao A Mi Đà Phật có thể không biết? A Mi Đà Phật biết rõ, tất cả chư Phật mười phương cũng biết. Chúng ta niệm A Mi Đà Phật, mười phương ba đời tất cả chư Phật Như Lai đều hoan hỷ, vì sao vậy? Bởi chư Phật Như Lai độ chúng sanh, thì pháp quan trọng nhất là pháp này. Chính bởi quý vị không tin, mới dạy cho quý vị Pháp môn khác, Pháp môn khác trồng thiện căn cho quý vị, giúp quý vị từ từ, dẫn dắt quý vị vào Pháp môn này. Quý vị xem Hoa Nghiêm, Hoa Nghiêm giống như tấm lưới, Kinh Hoa Nghiêm là giềng lưới, bên dưới là mắt lưới, vung lưới ấy ra, toàn bộ phạm vi đều ở trong giềng lưới đó, Kinh Hoa Nghiêm là giềng lưới. Giềng lưới đến cuối cùng là thế nào? Là Thập đại Nguyện vương dẫn về Cực Lạc. Ý nghĩa đó là gì? Nếu quý vị xem rõ ràng, xem hiểu: ý nghĩa đó, thì quý vị liền sẽ quyết trọn một lòng niệm A Mi Đà Phật, điều gì quý vị cũng có thể buông xuống. Cho dù quý vị học [gì], dù quý vị nghe [gì], thì giống với Đồng tử Thiện Tài, tôi đã nghe hiểu, nghe sáng tỏ rồi, nhưng tôi không học Pháp môn đó của quý vị, tôi vẫn là niệm A Mi Đà Phật của tôi, tuyệt đối không dao động.

          Càng học được nhiều, thì tín tâm của quý vị càng vững chắc, vì sao? Bởi cũng không vượt ra ngoài cương lưới đó, đều không vượt ra, nắm chắc câu A Mi Đà Phật này: là nắm chắc tất cả. Bảo quý vị học rộng nghe nhiều làm gì? Để quý vị hiểu rõ chân tướng sự thật, hoá ra: không có pháp nào rời khỏi A Mi Đà Phật, mới thật sự tin: công đức của tín nguyện trì danh là vô lượng vô biên. Chúng ta không đạt được công đức đó là vì sao? Do chúng ta niệm Phật có nghi ngờ, chúng ta không biết Phật hiệu có năng lực lớn như thế, là dùng tâm khinh mạn để niệm Phật, không phải dùng tâm chân thành, nên công đức niệm của quý vị có hạn. Công đức có hạn đó cũng rất thù thắng, cũng rất tuyệt vời, chính quý vị hoàn toàn không biết. Cho nên lúc mạng sắp hết một niệm đã mê, vẫn làm Lục đạo luân hồi như cũ, đó gọi là thật đáng tiếc. Có một hạng người thiện căn sâu dày, lâm chung mê rồi lại đến cõi người, cả đời này ở cõi người không gặp được Phật pháp, ở thế gian này: tiêm nhiễm rất nhiều Phiền não Tập khí, lúc mạng sắp hết lại gặp được Phật pháp, thiện căn của họ hiện ra, buông xuống vạn duyên, nhất hướng chuyên niệm, họ đã vãng sanh. Có hạng người như thế, không phải là may mắn, may mắn là họ lâm chung gặp được Tăng thượng duyên, gốc của họ sâu, gốc của đời trước trong quá khứ rất sâu, chỉ là bị Phiền não Tập khí làm mê rồi, lâm chung một niệm buông xuống thì họ vãng sanh. Sự buông xuống đó, trong Kinh Đại thừa nói với chúng ta, họ được tất cả Như Lai: mà [họ] đã cúng dường trong vô lượng kiếp ở quá khứ: dùng uy thần gia trì họ, chứ không phải là gặp may. Trong Phật pháp không có may mắn thành tựu, nếu quý vị biết nhân trước quả sau của họ, thì đã sáng tỏ hoàn toàn.

          Cho nên ba loại chu biến đó, giúp chúng ta giải quyết những nghi hoặc này. Khởi tâm Động niệm của chính chúng ta rất quan trọng, nhất định không nên cho rằng chẳng có ai biết, vậy thì hoàn toàn sai lầm. Hàm dung Không Hữu là tâm lượng, trước nay là tâm lượng ấy, Không là hư không, hữu là vạn hữu, tức là vạn pháp, tâm lượng phải có thể bao dung. Đó là gì? Đó là tâm lượng vốn có của Tự Tánh, không phải do học mà đến, mà là do chính mình vốn có. Tất cả chúng sanh đều là tâm lượng ấy, vì thế nói tất cả chúng sanh trước nay là Phật, chính từ trên đây mà nói. Học Phật không có gì khác, [chỉ là] tìm trở lại tâm lượng. Ở hiện tiền không gì chẳng thể bao dung, đặc biệt là cần phải bao dung nghịch cảnh ác duyên. Nếu không thể bao dung thì tâm quý vị sẽ oán hận, quý vị sẽ có oán hận, sẽ có trả thù, sự việc đó liền phiền phức, là sẽ dẫn đến tương lai đời sau oan oan tương báo. Nếu không có duyên gặp được Phật pháp, thì oan oan tương báo ấy càng báo càng tàn khốc, càng báo oán càng nghiêm trọng, khổ không nói hết. Đôi bên đều khổ, không phải nói đối phương khổ còn quý vị hưởng vui, không hề, mà hai bên đều khổ, sai lầm, thật đã sai.

          Chúng ta xem đoạn tiếp, 「阿難因現睹光瑞前所未見歡喜慶幸」A Nan nhân hiện đổ quang thuỵ, tiền sở vị kiến, hoan hỷ khánh hạnh”(Bởi hiện nay ngài A Nan thấy quang minh tướng lành, mà trước đây chưa từng thấy, [nên] hoan hỷ vui mừng). Tôn giả A Nan, bởi hiện nay đức Phật đang phóng quang hiện tướng lành, ngài đã thấy được, trước đây cũng thấy được, nhưng không thù thắng như hôm nay, hôm nay quá thù thắng, quá kỳ diệu đặc biệt. Cho nên chính ngài A Nan đang nghĩ, 「今日世尊現希有之光明顯難睹之瑞相」kim nhật Thế Tôn hiện hy hữu chi quang minh, hiển nan đổ chi thuỵ tướng”(nay đức Thế Tôn hiện quang minh hiếm có, hiển bày tướng lành khó được thấy), rất không dễ thấy được tướng lành như thế, 「故知世尊必入大寂之定住奇特之法」cố tri Thế Tôn tất nhập Đại Tịch chi Định, trụ kỳ đặc chi pháp”(nên biết đức Thế Tôn chắc chắn nhập Đại Tịch Định, trụ pháp kỳ diệu đặc biệt). Đó là trong tâm ngài A Nan suy nghĩ, không có nghĩ sai, quả đúng là như vậy. Ba câu sau cùng rất là quan trọng, 「此定此法即是念佛三昧、導師之行、最勝之道」thử định thử pháp tức thị Niệm Phật Tam-muội, Đạo sư chi hạnh, tối thắng chi đạo”(định ấy pháp ấy chính là Niệm Phật Tam-muội, là hạnh của Đạo sư, đạo thù thắng nhất), ba câu này, định ấy là Niệm Phật Tam-muội, pháp ấy chính là hạnh của Đạo sư, đạo thù thắng nhất. Thật sự có thể chỉ dẫn chúng sanh: liễu sanh tử xuất Tam giới, mới xưng đó là Đạo sư. Nên Đạo sư là xưng với ai? Là đối với Phật, đối với Tổ sư Đại đức, không phải xưng với người thông thường, đó là vô cùng tôn trọng. Ở trong nhà Phật, Phật giáo Trung Hoa, hiện nay không có Tiểu thừa, chỉ còn tám tông phái của Đại thừa, Tổ sư của tám tông phái xưng là Đạo sư. Tiểu thừa có hai tông, Câu Xá tông và Thành Thật tông. Đại sư của hai tông đó cũng rất tuyệt vời, quý ngài hướng dẫn quý vị thoát ly Lục đạo luân hồi, lìa rốt ráo khổ, nhưng quý ngài không có biện pháp: làm cho quý vị được cứu cánh vui. Quý ngài dẫn dắt quý vị thoát khỏi sáu đường luân hồi: nhập vào Pháp giới Tứ thánh, tức là chứng quả A-la-hán, quả Bích-chi-phật, ở trong Pháp giới Tứ thánh là Pháp giới Thanh văn, Pháp giới Duyên giác, chỉ có thể giúp quý vị đến nơi ấy. Đó là lìa khổ được vui, không phải cứu cánh. Nếu quý ngài có thể giúp quý vị vãng sanh Thế giới Cực Lạc, thì đó là hạnh của Đạo sư, được cứu cánh vui. Ngày nay đức Thế Tôn tuyên giảng cho chúng ta, là Kinh Vô Lượng Thọ của Đại thừa, là dẫn dắt chúng ta: tín nguyện trì danh, vãng sanh Tịnh Độ, đó chính là hạnh của Đạo sư. Cho nên vị thầy của Tịnh Độ tông, có thể xưng Đạo sư, có thể xưng Đại sư. Đại sư cũng không phải tuỳ tiện xưng, Đại sư là chỉ dẫn một người thành Phật, ý nghĩa giống với Đạo sư. Không thể dạy chúng ta thành Phật: thì không thể xưng Đại sư, cho nên thông thường gọi là Pháp sư, xưng là Đại Pháp sư, bởi danh hiệu Đại sư không phải tuỳ tiện xưng được.

          Pháp môn này quả thật là giúp được mọi người: một đời thành Phật, tín nguyện trì danh, cầu sanh Tịnh Độ. Trong Kinh này giảng rất rõ ràng, rất sáng tỏ, vãng sanh Thế giới Cực Lạc ba bậc Thượng, Trung, Hạ, đều là phát tâm Bồ-đề, nhất hướng chuyên niệm, bao gồm người của Nhất Tâm Tam Bối. Nhất Tâm Tam Bối là gì? Là không phải chuyên tu Tịnh Độ, mà học tông phái khác, thậm chí học Tôn giáo khác, học rất tốt, đem công đức tu hành của quý vị, hồi hướng cầu sanh Tịnh Độ, khi lâm chung tín nguyện trì danh, một niệm, mười niệm cũng được vãng sanh. Pháp môn Tịnh Độ quá bất khả tư nghì, Pháp môn thật sự là rộng lớn, thật có thể bao dung, chân thật từ bi. Còn tôn giáo khác, không phải tín đồ của ta, thì Thượng Đế không phù hộ quý vị. Nhưng A Mi Đà Phật không như vậy, chẳng phải tín đồ của Ngài, lâm chung cầu Ngài, Ngài vẫn giúp quý vị, Ngài không phân biệt. Đời quá khứ quý vị là tín đồ của Tôn giáo, là người tốt, Ngài khi nhìn thấy quý vị thì hoan hỷ, quý vị muốn tới Thế giới Cực Lạc, Ngài liền giúp quý vị đến. Nói cách khác, hễ là sanh đến Thế giới Cực Lạc, thì được uy thần của A Mi Đà Phật gia trì. Học trò của đức Mi Đà, thì được chư Phật Bồ-tát tôn trọng, nếu quý vị đến quốc độ khác để lễ Phật, chư Phật đối đãi quý vị là đặc biệt ưu ái, vì sao vậy? Bởi quý vị là Đệ tử của A Mi Đà Phật, nhất định phải để quý vị ngồi ở ghế trước. Đó là thế nào? Do danh tiếng của A Mi Đà Phật lớn, nên không có chuyện chẳng tôn kính, chư Phật Bồ-tát đều tôn kính, thì nào có đạo lý Thiên thần không tôn kính? Nếu quý vị đến trời Sắc giới, đến trời Dục giới, thì những Thiên chủ đó đều ra cửa để nghênh tiếp quý vị, Đệ tử đức Mi Đà còn gì bằng! Người cùng tâm ấy, tâm đồng lý ấy, chúng ta nhất định phải biết. Thật sự đã biết, thì quý vị sẽ quyết trọn một lòng đối với Tịnh tông, sẽ không có ý niệm thứ hai nữa, sẽ chẳng dao động nữa, đời này chắc chắn sanh Tịnh Độ. Lợi ích của sanh Tịnh Độ, được nói trong bộ Kinh này, quý vị đã đạt được toàn bộ. Nhất định không dối gạt quý vị, quý vị cần phải tin.

          Niệm Phật Tam-muội là niệm giống với Phật, hạnh của Đạo sư là hạnh giống với Phật, nhất định giúp người đó: một đời thành tựu đạo Vô thượng. Đạo tối thù thắng: chính là đạo độ chúng sanh thành Phật. Đạo tối thắng là gì? Là tín nguyện trì danh, một câu trong Kinh này, 「發菩提心一向專念」phát Bồ-đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”, chính là con đường này, con đường này là đạo thù thắng nhất, mười phương ba đời: tất cả chư Phật Như Lai đều thừa nhận. Đời này chúng ta đây gặp được, không chỉ đã gặp được, mà thật sự làm rõ ràng, làm sáng tỏ, thì không có chút nghi ngờ nào nữa. Lúc mới gặp được là hoài nghi, trải qua sự học tập của 60 năm, thì tơ hào hoài nghi cũng không còn. Biểu hiện ở chỗ nào? Biểu hiện ở đều đã buông xuống: tất cả pháp thế gian và xuất thế gian rồi. Trong Kinh Kim Cang Phật dạy cho chúng ta, 「法尚應捨何況非法」Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp”(Pháp còn phải xả, huống chi phi pháp). Phi pháp là pháp thế gian,  buông xuống rồi, ngoài rìa cũng chẳng nhiễm; Phật pháp, buông xuống rồi, tôi chỉ nắm chắc một câu A Mi Đà Phật. Chỉ một câu Phật hiệu này, một bộ Kinh Vô Lượng Thọ này, một câu Phật hiệu, một bộ kinh, giúp tôi vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc: thân cận A Mi Đà Phật, ở Thế giới Cực Lạc một đời: chứng được thành tựu viên mãn. Nhất định không thể lỡ qua nữa, nếu lại để lỡ qua, vừa để lỡ chính là vô lượng kiếp, vậy thì quá đáng sợ!

          Chúng ta lại xem tiếp theo, 「蓋以三世如來佛佛相念」Cái dĩ tam thế Như Lai Phật Phật tương niệm”(Đại khái bởi ba đời Như Lai Phật Phật niệm nhau), chú ý chữ ba đời này, trong ba đời, đời quá khứ đã thành tựu, đời hiện tại sắp thành tựu, đời tương lai chính là những chúng sanh chúng ta đây. Những chúng sanh chúng ta đây có thể xưng là chư Phật, có thể xưng Như Lai không? Có thể. Vì sao? Bởi Bản Tánh của chúng ta là Như Lai. Xưng Như Lai là xưng Tánh đức, xưng Phật là nói từ trên Tướng, trên Tướng là phàm phu, nhưng Tánh của Như Lai không đổi. Chư Phật niệm chúng ta, chúng ta không niệm Phật, thì không cách nào khởi cảm ứng đạo giao. Hiện nay đã hiểu rõ, biết Phật niệm ta xưa nay chưa từng gián đoạn, ngày nay ta cần phải niệm Phật, ta cũng không nên có gián đoạn. Ngài A Nan từ câu này để suy đoán, nghĩ chắc hẳn hiện nay đức Thích Ca Mâu Ni Phật: đang niệm Phật, nhưng không biết Ngài niệm tôn Phật nào. 「故問曰為念過去未來諸佛耶為念現在他方諸佛耶若不是念佛者何故今日佛之威神顯耀光瑞殊妙乃爾」Cố vấn viết: Vi niệm quá khứ vị lai chư Phật da? Vi niệm hiện tại tha phương chư Phật da? Nhược bất thị niệm Phật giả, hà cố kim nhật Phật chi uy thần hiển diệu, quang thuỵ thù diệu nãi nhĩ”(Nên hỏi rằng: [đức Thế Tôn] là niệm chư Phật quá khứ hay vị lai? Hay niệm chư Phật hiện tại phương khác? Nếu không phải là niệm Phật, thì tại sao uy thần hiển diệu, ánh sáng tướng lành của Phật hôm nay, thù thắng vi diệu như vậy?) Đó là đến trình độ ấy.

          「威者,勇猛也。神者,不可測度也」Uy giả, dũng mãnh dã. Thần giả, bất khả trắc độ dã”(Uy: là dũng mãnh. Thần: là không thể suy lường), phàm phu không cách nào tưởng tượng. 「顯耀者,光麗也。佛光中映現莊嚴之十方寶剎,妙顯《華嚴》不可思議之玄門」Hiển diệu giả, quang lệ dã. Phật quang trung ánh hiện trang nghiêm chi thập phương bảo sát, diệu hiển Hoa Nghiêm bất khả tư nghì chi Huyền Môn”(Hiển diệu: là sáng rỡ tuyệt đẹp. Trong ánh sáng của Phật hiện ra cõi báu mười phương trang nghiêm, khéo hiển bày Huyền Môn không thể nghĩ bàn của Hoa Nghiêm). Thập Huyền được giảng trong Kinh Hoa Nghiêm, đều có ở trong bộ Kinh này. Cho nên cổ nhân gọi bộ Kinh này: là Trung bản Hoa Nghiêm, thật có chứng cứ, không phải là nói tuỳ tiện. Thập Huyền là chỉ có trong Hoa Nghiêm, trong bộ Kinh này có Thập Huyền. Trong Tiểu bản A Mi Đà Kinh có Thập Huyền, trong Sớ Sao của Đại sư Liên Trì, nêu ra cho chúng ta, người thông thường chúng ta đều lơ là, không chú ý đến. Chính bởi không chú ý, nên quý vị đối với Kinh này mới nghi ngờ, tín tâm của quý vị không đầy đủ, không viên mãn. Quý vị không đạt được lợi ích chân thật của bộ Kinh này. Nếu quý vị thật sự xem hiểu, xem rõ ràng, thì Kinh Vô Lượng Thọ chính là sự cô đọng của Kinh Hoa Nghiêm. Nên Đại đức xưa đem Hoa Nghiêm, Kinh Vô Lượng Thọ, và Tiểu bản A Mi Đà Kinh xem thành một bản. Đại bản, Trung bản, Tiểu bản, nội dung, cảnh giới hoàn toàn giống nhau, không thể nghĩ bàn. Nói được chi tiết nhất, rõ ràng nhất chính là Hoa Nghiêm, [là] Đại bản; nói tương đối rõ một chút: là Kinh Vô Lượng Thọ; nói đơn giản nhất: là Kinh A Mi Đà. Kinh A Mi Đà tiện cho làm thành khoá tụng sớm tối, tinh yếu, nội dung hoàn toàn tương đồng, không tăng không giảm, cách nói có chi tiết có lược, văn chữ có nhiều có ít. Dung lượng của Hoa Nghiêm lớn, nếu chúng ta không vội, có thể tin, thì có thể chọn lấy Tiểu bản, nương theo Kinh A Mi Đà nhập vào cảnh giới Hoa Nghiêm, vãng sanh Thế giới Cực Lạc liền vào được, bởi đó là Tiểu bản Hoa Nghiêm. Vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, điều mà Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy, quý vị hoàn toàn thông đạt hiểu rõ, thông một thì thông tất cả, hiểu một thì hiểu rõ tất cả, không còn chướng ngại nữa, quý vị liền có năng lực đến mười phương thế giới, giáo hoá chúng sanh giống như chư Phật Như Lai, thù thắng giống như Bồ-tát Quán Âm, nên dùng thân nào độ được thì hiện thân ấy, quý vị quán sát được căn cơ của chúng sanh, biết nên nói cho họ pháp nào, họ tiếp nhận được, họ nghe hiểu được, họ giác ngộ được, họ có thể tăng trưởng niềm tin, y giáo tu hành, họ có thành tựu. Đó gọi là ứng cơ thuyết pháp.

          Cho nên, Niệm lão ở đoạn này, làm tổng kết cho chúng ta đã nói: 「妙顯《華嚴》不可思議之玄門所現光瑞殊妙絕倫。」Diệu hiển Hoa Nghiêm bất khả tư nghì chi Huyền Môn, sở hiện quang thuỵ thù diệu tuyệt luân”(Khéo hiển bày Huyền Môn không thể nghĩ bàn của Hoa Nghiêm, quang minh tướng lành được hiện thù thắng vi diệu vô cùng). Chỉ có Phật làm được, Bồ-tát không làm được. Chúng ta muốn giới thiệu bộ Kinh này cho đồng học, chúng ta Quy y Tam Bảo trước khi vào giảng kinh, Quy y Tam Bảo chính là cầu Phật gia trì, cầu Tam Bảo Phật Pháp Tăng gia trì, hội của chúng ta đây, hai tiếng đồng hồ này, không có luống qua, không có giảng sai, người giảng hoan hỷ, người nghe cũng hoan hỷ. Hiện nay chúng ta là dùng Internet, dùng Vệ tinh để truyền bá, đồng học học tập ở trên Internet và Vệ tinh, không hề khác nhau, chúng ta cũng có thể cảm nhận được sự gia trì của Tam Bảo. Quy y Phật, Phật là giác ngộ, Giác thì không mê; Quy y Pháp, Pháp là Chánh tri Chánh kiến, Chánh thì không tà; Quy y Tăng, Tăng là thanh tịnh không nhiễm, sáu căn thanh tịnh, không nhiễm một trần, nên Tam Bảo là Giác Chánh Tịnh của Tự Tánh. Dùng Giác Chánh Tịnh của Tự Tánh để nghe Phật pháp, để tiếp nhận Phật pháp, thì quý vị thật được lợi ích. Chúng ta học, mà không đạt được lợi ích chân thật, thì chúng ta phải nghĩ đến tâm không thanh tịnh, sẽ sanh ra chướng ngại, vẫn mang theo nghi ngờ, thậm chí còn mang theo Phiền não Tập khí, đó chính là tự mình tạo thành chướng ngại, không thể khế nhập. Nếu không có chướng ngại ấy, thì khẳng định khế nhập cảnh giới. Chúng ta phải hiểu đạo lý này. Cho nên, trước khi giảng kinh, trước đây chúng tôi dùng Kệ Khai Kinh của Tổ sư Đại đức, Kệ Khai Kinh thật ra: là do Võ Tắc Thiên viết, viết rất hay. Chúng ta dùng Tam Quy Y, thực tế là tiếp nhận: [đề xuất] của những Pháp sư ở Sri Lanka nói với tôi, hy vọng tôi trước khi vào giảng kinh, hướng dẫn mọi người cùng nhau cử hành Tam Quy Y. Tôi cảm thấy rất tốt, kiến nghị này hay, tôi liền tiếp nhận. Chúng tôi trước mỗi lần diễn giảng cử hành Tam Quy, dùng tâm Giác Chánh Tịnh để nghe, thì có thể khế nhập nghĩa chân thật của Như Lai. Thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta chỉ học tập đến đây thôi.

(Hết tập 127)

Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.

Nam Mô A Mi Đà Phật.

Trả lời 0