Responsive Menu
Add more content here...

Tập 217 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014

(Giảng lần thứ 4)

Phẩm Thứ 8: Tích Công Luỹ Đức

Tập 217

Hòa thượng Thích Tịnh Không chủ giảng.

Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông.

Thời gian: Ngày 22 tháng 7 năm 2015.

Dịch giả: Diệu Thương.

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

          Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, kính mời ngồi, kính mời ngồi. Mời mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo:

 A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn; Quy y Đạt-ma, ly dục trung tôn; Quy y Tăng-già, chư chúng trung tôn. (3 lần).

 Mời xem 《大經科註》Đại Kinh Khoa Chú, trang 548, đếm ngược đến hàng thứ tư, chúng ta xem từ chỗ này, đếm ngược đến hàng thứ tư.

 本品開章明義,其第一句,直曰:住真實慧。此一句子,乃一切妙行之大本,為無量人天開正眼。“Bổn phẩm Khai Chương Minh Nghĩa, kỳ đệ nhất cú, trực viết: trụ Chân thật huệ. Thử nhất cú tử, nãi nhất thiết diệu hạnh chi đại bổn, vị vô lượng nhân thiên khai Chánh nhãn” (Phần Khai Chương Minh Nghĩa của phẩm này, câu thứ nhất đó, thẳng nói rằng: trụ trí huệ chân thật. Câu này, là gốc lớn của tất cả diệu hạnh, vì vô lượng trời người mà khai mở con mắt Chánh pháp). Chúng ta xem trước đoạn này如願修行 “Như Nguyện Tu Hành” (Tu Hành Như Nguyện). Đoạn này chia thành ba đoạn nhỏ, đây là đoạn thứ nhất, câu thứ nhất đã nói, 住真實慧,勇猛精進 “trụ Chân thật huệ, dũng mãnh tinh tấn” (trụ trí huệ chân thật, dũng mãnh tinh tấn). Câu thứ nhất này là gốc lớn của tất cả diệu hạnh, không chỉ là Tịnh tông. Diệu hạnh, hạnh chính là hành môn, cũng chính là chỉ hành vi của chúng ta, diệu, hạnh thế nào xưng là diệu? Chúng ta giảng đơn giản một chút, hành vi không tạo nghiệp chính là diệu, chúng sanh trong Lục đạo Mười pháp giới bất hạnh. Hành vi vô lượng vô biên, nhưng không nằm ngoài ba loại: thân khẩu ý, những gì do thân tạo, khẩu là ngôn ngữ, ý là ý niệm, cho nên gọi là ba nghiệp thân khẩu ý, hoàn toàn đã bao gồm tất cả hành vi. Hành vi có nhiễm có tịnh, có thiện có ác, nhiễm tịnh là Pháp giới Tứ thánh trong Mười pháp giới, gồm Thanh văn, Duyên Giác, Bồ-tát, Phật, nhiễm tịnh của các ngài là khác nhau, thiện ác trong Lục đạo cũng khác nhau. Ý nghiệp là ý niệm, ý niệm có thiện có ác, vô ký thì không tính, vô ký là không phải thiện không phải ác, gọi là vô ký, điều mà thân tạo cũng có thiện ác, khẩu, ngôn ngữ cũng có thiện ác, đây gọi là tam nghiệp. Thiện sẽ cảm thiện quả, ác thì đọa đường ác, nhất định là có. Chúng ta khởi một ý niệm, chính mình vẫn chưa cảm thấy được, thì trong A-lại-da đã ghi lại Chủng tử, chính mình vẫn chưa phát hiện được, nhưng trong phòng lưu trữ đã có rồi. A-lại-da chính là kho tàng, chính là phòng lưu trữ, nơi đó đã có lưu trữ rồi, đây là sự thật, một chút cũng không giả. Tuyệt đại đa số ý niệm, chúng ta đều không phát hiện được, tại vì sao? Vì ý niệm quá nhỏ. Không giống như ngôn ngữ, thân thể, đó là rất dễ dàng cảm giác được, nhưng ý niệm thì không dễ dàng. Ý niệm thô thì dễ dàng, còn ý niệm tế không dễ, tế đến mức độ nào?

          Trong Kinh điển, đức Phật nói với chúng ta, đức Thế Tôn hỏi Bồ-tát Di Lặc rằng, ý niệm có bởi tâm của hàng phàm phu chúng ta, chúng ta khởi một ý niệm, ý niệm này do có bao nhiêu ý niệm vi tế tạo thành? Có bao nhiêu ý niệm vi tế, có bao nhiêu Tướng? Có bao nhiêu Thức? Câu nói đó đã hỏi ba vấn đề. 心有所念,幾念幾相識耶 “Tâm hữu sở niệm, kỷ niệm kỷ tướng thức da” (Ý niệm có bởi tâm, có bao nhiêu niệm bao nhiêu tướng thức). Niệm là hỏi bao nhiêu niệm vi tế, tướng là vật chất, hiện tượng vật chất, thức là hiện tượng tâm lý, chính là ý niệm. Thức chính là ý niệm, niệm trước diệt thì niệm sau sanh, một ý niệm tiếp nối một ý niệm, ý niệm không gián đoạn, vậy tần số cao bao nhiêu? Bồ-tát Di Lặc nói, trong khoảng một cái vỗ tay, hoặc búng ngón tay, thời gian đó rất ngắn, quý vị xem một búng ngón tay, 拍手彈指之頃,三十二億百千念 “phách thủ đàn chỉ chi khoảnh, tam thập nhị ức bá thiên niệm” (trong khoảng vỗ tay hoặc búng tay, có 32 ức trăm ngàn niệm). Nhiều ý niệm vi tế như vậy, thì chúng ta làm sao có thể biết? Trong một búng ngón tay có 32 ức trăm ngàn niệm, trăm ngàn là 10 vạn, 100 ngàn, 32 hai ức nhân 10 vạn, là 320 ngàn tỷ, đó là một khảy ngón tay, hiện nay chúng ta dùng đơn vị là giây, đơn vị thời gian, một giây có thể búng bao nhiêu lần? Sức khỏe tốt, người trẻ tuổi thể lực tốt, nói với tôi, có thể búng bảy lần. 32 ức trăm ngàn niệm là 320 ngàn tỷ, 320 ngàn tỷ lại nhân với 7, thành  2.240.000 tỷ, trong một giây. Chúng ta làm sao có thể kiểm soát được? Một ý niệm chính là một hình ảnh, nội dung của hình ảnh đó là gì? Là toàn bộ vũ trụ. Đại sư Huệ Năng đã giảng rất rõ ràng cho chúng ta, vũ trụ từ đâu đến? Câu cuối cùng của ngài nói là何期自性,能生萬法 “hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp” (nào ngờ Tự Tánh, có thể sanh vạn pháp). Vạn pháp chính là vũ trụ, vũ trụ chính là được thành lập ở ngay trong ý niệm, một ý niệm là một vũ trụ viên mãn, thời gian tồn tại bao lâu? Là một phần của 2.240.000 tỷ giây, đơn vị là ngàn tỷ, cũng chính là nói trong một giây, ý niệm đó đã sanh diệt 2.240.000 tỷ lần. Thử hỏi, ý niệm nào là ý niệm của ta? Có thể nói thật sự là ngay cả khái niệm đều không có, tần số của ý niệm quá cao rồi. Đây chính là chân tướng của vũ trụ, mà trong kinh Đại thừa thường nói là 諸法實相 “chư pháp Thật tướng” (Thật tướng các pháp), thật chính là chân thật, tướng chân thật chính là như vậy. Câu nói đó của Bồ-tát Di Lặc đã nói ra tướng chân thật.

          Ngày nay chúng ta xem truyền hình, đây là khái niệm phổ biến mọi người đều có, là tivi, thì quý vị đã biết rồi. Âm thanh và sắc tướng của tivi, âm thanh sắc tướng ở trong màn hình, tần số đó cao bao nhiêu? Là mỗi giây có một trăm lần. Nếu chúng ta làm thí nghiệm, chính là giống như cuộn phim, tần số một giây bởi một tấm của chúng ta: là một trăm lần, 1 giây, dùng 1/100 giây để phát một tấm phim đó, chúng ta có thể nhìn thấy hiện tượng gì trên tấm phim đó? Chỉ cảm giác được ánh sáng lóe lên thì không còn nữa, nội dung chứa đựng ở trong ánh sáng đó là thứ gì, là hoàn toàn không biết gì cả. Tại sao? Vì nó quá nhanh. Chúng ta nhất định phải cần tốc độ thế nào thì mới có thể nhìn thấy tướng? Điện ảnh trước đây: là dùng nguyên lý ảnh động tạo thành, một giây 24 tấm, chính là trong một giây có 24 tấm, nếu chúng ta nhìn thì một tấm đều nhìn không ra, một tấm là thế nào? Là 1/24 giây, ở trong màn ảnh, chúng ta chỉ nhìn thấy ánh sáng sáng ngời, hoàn toàn không biết có thứ gì trong ánh sáng? Phải thế nào mới biết? Đại khái cần nửa giây, cũng chính là 1/12 giây, thì chúng ta mới có thể nhìn thấy tướng, trong nửa giây, nhìn được là cây, có người, có nhà cửa, có thể nhìn thấy những thứ đó, nhưng nhìn không thấy gương mặt của người đó, chỉ nhìn thấy có người, thấy bóng dáng. Điều này nói rõ, con mắt của chúng ta không đáng tin, nhìn sai rồi. Mỗi tấm phim phát trong màn hình, mỗi tấm đều nguyên vẹn, không có khiếm khuyết chút nào, vì sao quý vị lại nhìn không thấy?

          Hiện nay trên thực tế hiện tượng này bày ra ở ngay trước mặt chúng ta, tần số cao bao nhiêu? 1 giây là 2.240.000 tỷ. Thông thường chúng ta nói ức, mười ức, trăm ức, nghìn ức, vạn ức, vạn ức là một ngàn tỷ. Quý vị xem tần số cao như vậy, chúng ta làm sao biết đó là giả? Đó hoàn toàn là giả, căn bản không có thứ gì tồn tại. Cho nên ở trong Kinh Bát Nhã, đức Phật nói rất hay, tất cả pháp rốt ráo không, không thể được, vô sở hữu, câu nói này là thật, không giả chút nào. Đó mới gọi là Thật tướng các pháp, quý vị thấy được chân tướng rồi. Chúng ta đã muốn hỏi, người thế nào thì nhìn thấy? Trong kinh Đại thừa nói với chúng ta, từ bậc Bát địa trở lên thì các ngài nhìn thấy, là Bát địa Bồ-tát, Cửu địa Bồ-tát, Thập địa Bồ-tát, Đẳng giác Bồ-tát, Diệu Giác Như Lai, các ngài ở năm tầng bậc này đều có thể nhìn thấy, tuy không cần dùng thiết bị, nhưng nhìn được vô cùng rõ ràng, nói được vô cùng thấu triệt. Hiện tại nhà Khoa học Lượng tử khâm phục sát đất, họ đã khám phá ra bí mật này của hiện tượng vật chất rồi, vật chất là giả, không phải là thật. Hiện tượng vật chất là từ đâu mà đến? Là từ ý niệm, ý niệm động, niệm trước diệt thì niệm sau sanh, ảo tướng mà sóng của ý niệm sinh ra chính là hiện tượng vật chất. Đều là giả không phải là thật.

          Chúng ta tu hành, trong Kinh Hoa Nghiêm giảng về cấp bậc của Bồ-tát, có 51 cấp bậc, giống như đi học, có năm thứ nhất, năm thứ hai. Cấp bậc phân ra Thập tín, giống như Tiểu học, năm thứ nhất đến năm thứ mười, Thập trụ giống như Trung học Cơ sở, còn Thập hạnh giống như Trung học Phổ thông, Thập hồi hướng giống bậc Đại học, Thập địa giống như Viện nghiên cứu, Đẳng giác là lớp Tiến sĩ, tốt nghiệp rồi thì liền thành Phật. Cao nhất, Bát địa trở lên là như thế nào? Bát địa là địa vị thứ tám trong Thập địa, khoảng cách với thành Phật rất gần, lúc ấy mới thật sự nhìn được chân tướng của toàn bộ vũ vụ. Có người nhìn được không? Có, Đại sư Huệ Năng đã nhìn thấy, năm câu mà ngài nói chính là chân tướng. Quý vị xem điều thứ nhất là thanh tịnh, vốn tự thanh tịnh, cho nên tất cả tướng đều là thanh tịnh, quý vị nói tướng có hay không? Không thể nói tướng có, cũng không thể nói tướng không có, quý vị nói tướng không có, nhưng là có, nếu quý vị nói tướng có, liền không có nữa, quý vị xem một giây sinh diệt bao nhiêu lần? Là 2.240.000 tỷ lần, cho nên trong kinh Phật nói là không sanh không diệt, chính là nói chân tướng sự thật này, quý vị không thể nói nó sanh, khi quý vị nói nó sanh, liền không có nữa, quý vị nói nó không có, thì nó có, đây là chân tướng sự thật. Sau khi hiểu rõ chân tướng sự thật rồi, thì vũ trụ quan nhân sanh quan của quý vị, cách nghĩ, cách nhìn tự nhiên liền chuyển biến được, chuyển biến được thế nào? Là vô cùng chính xác. Đó là trí huệ, quý vị sẽ không sanh phiền não. Phiền não là gì? Phiền não là tham trước. Quý vị xem, mắt nhìn thấy sắc, nếu ưa thích liền nghĩ đạt được, nếu không ưa thích liền nghĩ rời xa nó, đây đều là phiền não, là sinh phiền não. Sau khi biết được chân tướng, thì sẽ như như bất động, không sanh phiền não nữa. Điều đó không có chướng ngại, chướng ngại là khởi tâm động niệm, phân biệt chấp trước của chính chúng ta mà sinh ra chướng ngại. Đối với tất cả cảnh giới, mắt trông thấy sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi mùi hương, lưỡi nếm vị, đều là như như bất động, không khởi tâm không động niệm, không phân biệt không chấp trước, đó gọi là diệu! Là diệu hạnh. Cho nên người thế nào có diệu hạnh? Diệu hạnh viên mãn, là bậc Bát địa trở lên. Sáu căn của các ngài ở trong cảnh giới sáu trần là như như bất động, tại sao? Vì biết cảnh giới bên ngoài là giả thôi, thì Thân căn này cũng là giả, cùng sanh diệt trên một tần số, là 2.240.000 tỷ. Cho nên không thể nói có, cũng không thể nói không có, nói có thì sai rồi, nói không cũng sai rồi, có không đều không thể được.

          Cho nên những quý ngài chứng đắc, các ngài là cách nhìn thế nào? Các ngài không có Khởi tâm, không có Động niệm, không có Phân biệt, không có Chấp trước, đó gọi là diệu hạnh. Nếu bậc A-la-hán so với chúng sanh Lục đạo, thì quý ngài là diệu hạnh, nhưng không thể so với bậc trên, quý ngài so chưa đến. A-la-hán không có Chấp trước, nhưng quý ngài có Phân biệt, quý ngài có Khởi tâm Động niệm, lại hướng lên trên, là Bồ-tát, Bồ-tát chính là không có Phân biệt, còn tới Phật thì sao? Phật là không khởi tâm, không động niệm. Còn Bồ-tát vẫn khởi tâm động niệm, nhưng không có Phân biệt Chấp trước, phiền não nhẹ. Bậc A-la-hán không chấp trước, nên phiền não liền nhẹ hơn so với hàng phàm phu trong Lục đạo, quý ngài không chấp trước, quý ngài không có ý niệm chiếm hữu, là Vô ngã rồi, cũng không có ý niệm đối lập chính là không có Biên kiến nữa, không đối lập với hết thảy người, không đối lập với hết thảy sự, cũng không đối lập với thiên địa vạn vật, vậy không đối lập là gì? Chính là Nhất như. Biết toàn bộ vũ trụ là một thể với chính mình, nếu là một thể thì không đối lập. Trên gương mặt chúng ta có mắt tai mũi lưỡi, mắt tai mũi lưỡi thân đều không đối lập, tại sao? Vì biết là một thể, nên không có đối lập.

          Khi chúng ta biết toàn bộ vũ trụ là một thể với chính mình, vậy thì rất hạnh phúc, rất tự tại, sẽ sinh trí huệ không sanh phiền não, tầng bậc thấp nhất là A-la-hán, A-la-hán đạt được rồi. Đó gọi là lìa khổ được vui, đó gọi là Lợi ích Chân thật, Trí huệ Chân thật, Chân thật Chi tế của Phật pháp. A-la-hán đã chứng đắc một chút bên bờ, vẫn chưa có đạt đến khu trung tâm, khu trung tâm là bậc Bát địa mới đạt tới được vùng trung tâm, viên mãn liền được thành Phật. Cho nên thành Phật, không phải nói ta đều đã đạt được tất cả trong vũ trụ này, là đạt được rồi, làm sao trả lời việc này? Là vốn có, chứ không phải đạt được. Vậy hiện tại là thế nào? Hiện tại nói thật là đánh mất rồi. Nên không có đạt được, là vốn có, có được gì? Là chính quý vị vốn có, chỉ là hiện tại đánh mất thôi. Đã đánh mất như thế nào? Vì mê mất, chứ không phải thật sự đánh mất. Chúng ta đã mê rồi, mê mất Tự Tánh, nên công đức, trí huệ, đức năng vốn đủ của Tự Tánh đều không thể hiện tiền. Lục căn vẫn có một chút quang minh, quý vị vẫn có thể nhìn, có thể nghe, có thể nghe thấy, có thể ngửi, nhưng toàn bộ phản ứng là tập khí phiền não, đây gọi là không diệu.

          Cho nên trụ chân thật huệ là tất cả gốc lớn của diệu hạnh, đây là Phật pháp Đại thừa, ở chỗ này, đặc biệt là chỉ Kinh Vô Lượng Thọ, là chỉ Pháp môn Tịnh Độ, mang đến cho quý vị Trí huệ Chân thật. Vì vô lượng trời người, đặc biệt tốt, chúng ta là thân phận trời người, [vì] vô lượng người, vô lượng trời người mà khai mở con mắt Chánh pháp. Chúng ta hiểu rõ chân tướng sự thật này, không phải là do chúng ta chứng đắc, cũng không phải do chúng ta tu được, mà là do chúng ta thấy được ở trong kinh, nghe những gì đức Phật nói, nghe các thế hệ Tổ sư Đại đức tương truyền, chúng ta tin được rồi. Đây là then chốt, nếu quý vị không tin, thì quý vị đều không đạt được gì cả. Nếu tin được rồi thì quý vị mới đạt được, đạt được điều gì? Chí ít là phiền não nhẹ rồi, có Chấp trước hay không? Là Chấp trước nhẹ rồi. Phiền não mất đi rồi, sẽ không còn hết sức khó chịu nữa, tại sao? Vì biết tất cả đều là giả rồi, không phải là thật. Từ từ quý vị có thể nhìn được thấu, thì quý vị có thể buông xuống được, đây chính là chánh nhãn của chúng ta khai rồi, biết được chân vọng, chân và vọng. Ở trong dạy học liền có thể đạt được, thật sự hiểu rõ, điều đó không phải là giả mà là sự thật, 凡所有相,皆是虛妄,一切法無所有、畢竟空、不可得  “phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng, nhất thiết pháp vô sở hữu, tất cánh không, bất khả đắc” (những gì có tướng, đều là hư vọng, tất cả pháp không sở hữu, rốt ráo không, không thể được). Thân là có thể có được hay không? Là không có được, buổi tối đi ngủ khi đã ngủ say, người khác khiêng quý vị đi, mà chính mình không biết được, đây là thật không phải là giả, cho nên thân không phải là chính mình. Chính mình là thế nào? Chính mình là không sanh không diệt. Cho nên thông thường chúng ta nói là Linh tánh, không phải linh hồn, linh hồn là mê, linh hồn không giác ngộ, là Linh tánh. Trong Phật pháp nói Phật Tánh, Tự Tánh, đó là chính mình, chính mình thật sự. Không sanh không diệt, đầy đủ vô lượng trí huệ, vô lượng đức năng, vô lượng tướng hảo, quý vị là toàn tri toàn năng.  Toàn tri toàn năng là trong Tôn giáo ca ngợi Thượng đế, họ không biết vũ trụ đến như thế nào? Nên cho rằng do Thượng đế tạo ra, kỳ thực Thượng đế là chính mình, do chính mình tạo ra.

          Phật pháp cao minh, từ Đại sư Huệ Năng, đây là người nước ta, cách chúng ta không tính là quá xa, mới hơn một ngàn năm, đã nói ra cho chúng ta何期自性,能生萬法 “nào ngờ Tự Tánh, có thể sanh vạn pháp”, vấn đề được giải quyết rồi. Tất cả thần thánh là do Tự Tánh của chính mình biến hiện, chư Phật Bồ-tát cũng là do Tự Tánh biến hiện. A Mi Đà Phật từ đâu đến? Là Tự Tánh Mi Đà, duy tâm Tịnh Độ, Thế giới Cực Lạc cũng là Tự Tánh biến hiện ra, không phải có từ bên ngoài, bên ngoài không có. Nếu quý vị tìm thấy Tự Tánh, gọi là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, thì thứ gì cũng đều là có sẵn, quý vị hoàn toàn đạt được rồi. Quý vị nói cần học điều này hay không? Quý vị nói quan trọng hay không? Tất cả pháp thế gian và xuất thế gian, không có khả năng so sánh với điều này. Vậy mục đích của học Phật là gì? Là thành Phật. Vô lượng Pháp môn đều có thể thành Phật, thành Phật không có phương pháp nhất định, tất cả có thể thành Phật, cho nên đức Phật nói: 法門平等,無有高下 “Pháp môn bình đẳng, vô hữu cao hạ” (Pháp môn bình đẳng, không có cao thấp). Pháp môn không có cao thấp, nhưng người chúng ta có cao thấp. Nguời có cao thấp thế nào? Là mức độ mê hoặc có cao thấp, có người mê sâu, có người mê cạn. Người mê cạn, hễ nghe thì họ liền tin tưởng rồi, còn người mê sâu thì họ không tin tưởng, họ phải từ từ để tin tưởng, làm rõ ràng, làm sáng tỏ từng việc từng việc, thì họ mới tin tưởng. Vì thế căn tánh không giống nhau, nên đức Phật mới mở ra nhiều môn phương tiện như vậy.

          Tịnh tông niệm Phật vãng sanh, là phương tiện ngay trong phương tiện, có thể nói là phương tiện bậc nhất trong vô lượng phương tiện. Chúng ta gặp được rồi, chúng ta có thiện căn phước đức hay không? Có, tại sao vậy? Vì nếu không có thiện căn phước đức thì quý vị không thể tin tưởng. Không những tin tưởng, mà ta còn cho rằng đó là thật sự có, ta còn thật sự muốn đến Thế giới Cực Lạc, vậy thì có thiện căn tương đối sâu dày. Giống như đức Phật đã nói ở trong kinh, hạng người ấy, ở trong vô lượng kiếp quá khứ, đã từng cúng dường vô lượng chư Phật Như Lai, quý vị mới có thiện căn này, quý vị vừa nghe thì liền hoan hỉ, liền có thể tiếp nhận, điều đó không phải người thông thường có thể làm được. Chúng ta đang nắm giữ Pháp môn này, nếu ở nước ngoài, những khu vực ấy không có khái niệm về Phật giáo, mà quý vị giảng cho họ, thì không có một ai tin tưởng, ở hoàn cảnh đó của nước ta, Phật pháp đã dạy học gần 2000 năm ở trong đó rồi, có cơ sở tương đối sâu, quý vị đi hỏi, thì có người tin tưởng, có người không tin tưởng. Người tin tưởng ít, người không tin tưởng nhiều. Cho nên gọi là pháp khó tin. Khó tin không phải là một đời này, mà nếu đem ghi chép của quá khứ đời đời kiếp kiếp tất cả tính toán vào đây, thì thật khó tin! Có cơ sở này, có nền tảng này, cần phải gặp được duyên, duyên là gì? Là Thiện tri thức, là có người giới thiệu cho quý vị, ngay trong gia đình thân thích, bạn bè của quý vị, trong bạn học, đồng nghiệp có học Pháp môn này, học được khá tốt, họ đến khuyên bảo quý vị. Quý vị vừa nghe thì tiếp nhận, liền vui vẻ, liền sinh ra thiện căn, liền đâm chồi sinh ra, nhưng có người nghe đến thì không tin tưởng, bán tín bán nghi, là họ có thiện căn, nhưng vẫn chưa có trổ ra. Cho nên phải có hoàn cảnh học tập. Hoàn cảnh có hoàn cảnh nhân sự, hoàn cảnh vật chất, nếu mọi duyên đều không thiếu, thì đời này nhất định vãng sanh, vãng sanh Thế giới Cực Lạc, một đời nhất định thành Phật, là Pháp môn đời này thành tựu.

          Chúng ta học kinh giáo, thì giống như câu trên đã nói, là khai Chánh nhãn, có thể tôn trọng đối với Phật pháp, Chánh tri Chánh kiến, chính là ý nghĩa này. Tôn trọng kính ngưỡng với điển tịch của Cổ thánh Tiên hiền và lão Tổ tông nước ta, đều là thuộc về khai Chánh nhãn, các ngài biết tà chánh. Nếu không tôn trọng đối với những điều này, chư Phật Bồ-tát, Tổ sư Đại đức, bao hàm lão Tổ tông trong quá khứ của đất nước chúng ta. Tôi cho rằng trong những lão Tổ tông đó có rất nhiều là chư Phật Bồ-tát tái lai, bằng không quý ngài không có khả năng giảng về Thật tướng các pháp được rõ ràng như vậy, giảng được sáng tỏ như vậy. Ngài Trang tử đã nói, 天地與我同根,萬物與我一體 “thiên địa dữ ngã đồng căn, vạn vật dữ ngã nhất thể” (trời đất cùng gốc với ta, vạn vật cùng thể với ta), nếu đó không phải là người Đại triệt Đại ngộ thì nói không ra. Đây là cảnh giới của người thế nào? Là cảnh giới của Pháp thân Bồ-tát, đã cách Phật rất gần, mới có thể nói ra được. Cho nên Cổ thánh Tiên hiền, mỗi một triều đại đều có một số vị, là cảnh giới ngộ nhập Tự Tánh.

          Tiếp theo nói, 德遵普賢品 “Đức Tuân Phổ Hiển Phẩm”(Phẩm Đức Tuân Phổ Hiển) của Kinh này, đây là phẩm thứ hai, trong đó có câu kinh văn, 開化顯示真實之際 “khai hóa hiển thị Chân thật Chi tế” (khai mở giáo hóa hiển bày Chân thật Chi tế). Bộ Kinh này có ba điều chân thật, là Trí huệ Chân thật, Chân thật Chi tế và Lợi ích Chân thật. Cần phải chú ý hai chữ chân thật này, tại vì sao? Vì pháp thế gian là giả. Trong Lục đạo luân hồi không có chân thật, trong Mười pháp giới cũng không có chân thật, Mười pháp giới là bên ngoài Lục đạo, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, là Pháp giới Phật trong Mười pháp giới đều không phải chân thật. Cho nên vị Phật đó, trong Đại thừa giáo gọi quý ngài là Tương tự Tức Phật, tuy rất giống Phật, nhưng không phải là Phật. Vậy tiêu chuẩn của vị Phật thật sự là gì? Là phải Kiến tánh. Nếu chưa Kiến tánh, tuy tu được rất giống hình dáng Phật, thật sự hạ công phu Tam học Giới Định Huệ, học được rất giống, nhưng chưa Kiến tánh, thì gọi là Tương tự Phật, không phải là thật. Kiến tánh rồi, đó chính là Phật thật sự, cho nên kiến Tánh thành Phật, đó là thành Phật thật sự. Cần phải hiểu rõ đạo lý này.

          Trong  德遵普賢品  (Phẩm Đức Tuân Phổ Hiền)nói, 開化顯示 “khai hóa hiển thị” (khai mở giáo hóa hiển bày), khai là chư Phật Bồ-tát đại từ đại bi ứng hóa ở thế gian. Nếu đức Phật không đến thế gian, thì chúng sanh vĩnh viễn ở Lục đạo tạo ra luân hồi, đức Phật đến thế gian là giúp đỡ chúng sanh. Điều đầu tiên, có thể thoát khỏi Lục đạo luân hồi, Lục đạo luân hồi là nỗi khổ tận cùng, giúp đỡ chúng sanh lìa khổ được vui. Nếu không ra khỏi luân hồi, thì giúp đỡ chúng sanh lìa khổ là không rốt ráo, quý vị giúp đỡ họ, từ ba đường ác lên ba đường thiện, sinh đến cõi người, là không tệ rồi, so với nỗi khổ của ba đường ác phải chịu thì ít đi rất nhiều, nhưng người vẫn là khổ. Từ cõi người lại đưa quý vị lên cõi trời, là trời Dục gới, trời Sắc giới, trời Vô sắc giới, tầng sau vui hơn tầng trước, tuy lìa khổ được vui, nhưng là thế nào? Là chưa ra khỏi Lục đạo luân hồi. Thọ mạng của trời Sắc giới hết rồi, hoặc thọ mạng của trời Vô sắc giới hết rồi, phía trên không có nữa, vậy thì khẳng định rơi xuống phía dưới. Sự lên xuống của Lục đạo, thời gian lên trên thì ngắn, đọa lạc xuống dưới, thời gian chịu tội đó thì dài. Cho nên giúp đỡ người sanh cõi trời, giúp đỡ người sanh trời Dục giới, trời Sắc giới, trời Vô sắc giới, đều không phải là vui rốt ráo, chỉ tạm thời lìa khổ được vui. Khi thọ mạng hết rồi, vẫn phải đọa lạc, những phiền não tập khí và Chủng tử ác nghiệp đó trong A-lại-da đều vẫn còn, chưa có mất. Chỉ có Phật Bồ-tát mới có thể giúp chúng ta hóa giải vấn đề này, là chuyển Thức thành Trí, biến Chủng tử nghiệp chướng tập khí và Chủng tử phiền não trong A-lại-da, tất cả đều thành Chủng tử trí huệ. Giác ngộ chính là trí huệ, mê chính là phiền não. Giúp đỡ chúng sanh giác ngộ, đây là công đức chân thật, đây là Lợi ích Chân thật, đây là lìa khổ được vui thật sự.

          Thế gian này, điều mà hiện nay chúng ta phải chịu so với người xưa, so với thế hệ cha mẹ chúng ta chịu càng khổ hơn, những nỗi khổ mà cha mẹ chúng ta phải chịu thì chúng ta đã nhìn thấy, ngày nay càng khổ so với lúc đó. Chúng ta suy đoán lên trên, cha mẹ chúng ta so với ông bà, nỗi khổ mà thời đại đó của ông bà đã chịu nhẹ hơn so với thời đại này của cha mẹ chúng ta. Mặc dù quốc gia đã loạn, ở năm đầu Dân Quốc, nơi thành thị tương đối rõ ràng, còn nông thôn thì sao? Người nông thôn vẫn là rất tuân thủ quy củ, họ vẫn thật sự có hưởng thụ, không có gánh nặng như người trong thành phố, nặng nề đến vậy. Người thôn quê là ăn no mặc ấm, nhà tranh vách đất, thì họ rất hài lòng rồi. Họ ở qua ba năm nhà tranh, thứ họ lợp không phải là cỏ tranh mà là rơm rạ, so với nhà cỏ tranh vẫn có lẽ kém một bậc, kém nhất là nhà lợp rơm rạ. Trong lúc đó, gia đình đông người thông thường, loại cỏ tranh cỏ bồng này đều là cho súc sanh ở, nuôi ngựa, nuôi bò. Lúc đó không có công cụ giao thông, xe, thật sự xa hoa nhất chính là xe ngựa, thông thường trong nhà nông dân có xe bò, đây là xe phổ biến nhất có thể nhìn thấy, đi xe đường xa, trong thời gian là xe bò trước đây, xe bò có thể chở người, cũng có thể chở vật. Còn ngày nay chúng ta, thật sự là khoa học kỹ thuật mang cho chúng ta sự hưởng thụ của văn minh vật chất, đây là người xưa hưởng thụ không được, nhưng nỗi khổ mà ngày nay chúng ta chịu là nặng hơn so với họ. Niềm vui mà chúng ta nhận được là không nhiều so với họ. Niềm vui này tạo rất nhiều rất nhiều tội nghiệp, mà chính mình không biết. Niềm vui mà họ hưởng thụ là niềm vui thật sự, có niềm vui gia đình, có niềm vui gia tộc, có niềm vui bạn bè, tại sao? Vì trong xã hội đó, vẫn coi trọng Ngũ luân Ngũ thường, người trẻ tuổi không tuân thủ Luân thường, là rất ít nghe thấy; Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín, mọi người đều tuân thủ, xã hội Ngũ luân. Thời kháng chiến vẫn còn có, sau kháng chiến thì không có nữa, sau kháng chiến thì hoàn cảnh đó đã thay đổi, người từ từ biến thành tự tư tự lợi, tổn người lợi mình, bất nghĩa, họ làm ra được. Thời kháng chiến, việc tổn người lợi mình, người thông thường vẫn xấu hổ làm không ra, lét lút làm, không có trắng trợn mà làm. Còn vô trí, vô lễ, vô tín, người hiện tại đều làm đến tất cả rồi. Trong thời kháng chiến đó, có Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín. Chúng tôi là học sinh lưu vong, đi đến bất kỳ chỗ nào, người dân nơi đó đều sẽ chăm sóc chúng tôi, họ có ái tâm, biết chúng tôi lánh nạn có khó khăn, họ tặng cho chúng tôi rất nhiều lương thực, tặng cho chúng tôi một ít tiền, tặng ít quần áo cũ cho chúng tôi mặc, thật sự có người giúp đỡ. Cho nên cuộc sống gian khổ lúc đó, bây giờ nhớ lại, hạnh phúc hơn nhiều so với bây giờ. Hiện nay cuộc sống thật khổ sở, người xưa có nằm mộng cũng nghĩ không đến.

          Từ nay về sau, nếu không thể khôi phục giáo dục truyền thống, giáo dục tôn giáo trở lại, thì nỗi khổ này, đời sau nghiêm trọng hơn đời trước, chúng ta nhìn không thấy sự yên vui. Sự phát triển của khoa học mang cho chúng ta nỗi bất an lo âu lớn nhất chính là chiến tranh vũ khí hạt nhân sinh học hoá học. Sự đe doạ này quá lớn rồi, người xưa không có sự đe doạ này. Chiến tranh, chiến tranh thế giới thứ hai phát minh ra súng máy, đó là vũ khí sắc bén giết người, trước đây chưa từng có. Hiện nay phát minh chính là vũ khí sinh học hoá học, là vũ khí hạt nhân, khiến cho vi khuẩn đều không thể sinh sống, vấn đề này nghiêm trọng. Cho nên vào năm 1970, lúc cuối đời, trong đầu Tiến sĩ Arnold J.Toynbee nước Anh đã nghĩ đến vấn đề này, làm thế nào ngăn cản chiến tranh thế giới lần thứ ba, ông đã nghĩ đến vấn đề này. Nghĩ đến cuối cùng, đã nghĩ ra một cách giải quyết, tôi tin tưởng cách nghĩ đó của ông là đến từ cách nhìn sâu sắc của ba đời Hạ Thương Chu của Trung Hoa, chính là thế giới cần phải thống nhất, nên dùng điều gì để thống nhất? Là dùng học thuyết Khổng Mạnh của truyền thống Trung Hoa, dùng Phật pháp Đại thừa, vậy ai đến thống nhất? Là người Trung Hoa đến thống nhất. Do người Anh nói, thời năm 1970, lúc đó, ông đã 80 tuổi rồi. Ông đã qua đời năm 1975, năm đó ông 85 tuổi. Rất nhiều người nghe đến ngôn luận đó của ông thì nghi ngờ. Ông ấy nói với mọi người, Trung Hoa có văn hóa 5000 năm, nếu họ gặp phải trở ngại thì đi không thông nữa, sẽ trở lại tìm lão Tổ tông, vấn đề của họ sẽ được giải quyết thôi. Phía sau có một chỗ dựa, là lão Tổ tông. Ông đã nhìn thấy. Còn hiện tại thì chúng ta có rất nhiều người không nhận thức lão Tổ tông, điều này rất bi ai. Người nhận thức lão Tổ tông đều sẽ đồng ý với điều do Tiến sĩ Arnold J.Toynbee nói, đây là sự thật, không giả chút nào.

          Lão Tổ tông Trung Hoa đã làm ra cống hiến lớn nhất đối với toàn nhân loại toàn thế giới, chính là các ngài có thể đem trí huệ, Trí huệ Chân thật, Lợi ích Chân thật, đó chính là lý niệm, phương pháp, từ phương pháp tu dưỡng thân tâm của mỗi người: đến trị gia, gia đình hạnh phúc, sự nghiệp thuận lợi, xã hội an toàn, quốc gia giàu mạnh, thiên hạ thái bình, những điều rất tuyệt vời đó, là kết tinh trí huệ của các ngài, phương pháp, kinh nghiệm đều ở trong đó, dùng chữ Hán Văn ngôn văn viết thành sách vở lưu truyền cho đời sau. Tứ Khố Toàn Thư của Trung Hoa chúng ta, ở trên trái đất này, quý giá nhất chính là gì? Chính là bộ sách này, không có gì quý hơn bộ sách này, bộ sách này có thể mang cho mọi người một đời hạnh phúc mỹ mãn. Chúng ta cần phải nhận thức, chúng ta cần phải học tập, bằng không mà nói, thật có lỗi với Tổ tông. Nghèo khó không phải là khổ, mà vô tri là khổ. Quý vị xem học trò của ngài Khổng tử là ngài Nhan Hồi, ngài Nhan Hồi không có phước báu, cuộc sống vật chất vô cùng nghèo khổ, nhưng ngài không khổ, ngài rất vui vẻ. Vui vẻ của ngài đến từ đâu? Từ trí huệ, vui vẻ biểu hiện ra ngoài. Cuộc sống vật chất không quan trọng, căn bản chính là không có để ở trong tâm, cũng không có đặt ở trên miệng, từ sáng đến tối vui vẻ không gì sánh bằng. Đó là gì? Là trí huệ. Quý vị hỏi ngài điều gì, ngài đều biết. Đức hạnh, hiếu đễ trung tín, lễ nghĩa liêm sỉ, nhân ái hòa bình, đã làm được rồi, nên vui vẻ biết bao.

          Chân thật Chi tế chính là Tự Tánh, là chân thật. Câu này開化顯示真實之際 “khai hóa hiển thị Chân thật Chi tế”, ở trong pháp Đại thừa chính là Minh tâm Kiến tánh, Kiến tánh thành Phật. Phẩm大教緣起 “Đại Giáo Duyên Khởi”, trong phẩm ấy, đức Phật nói欲拯群萌,惠以真實之利 “dục chẩn quần manh, huệ dĩ chân thật chi lợi” (mong cứu vớt chúng sanh, ban cho Lợi ích Chân thật). Là sự cứu giúp chân thật, quần manh là chúng sanh Lục đạo, chúng sanh Lục đạo đã mê mất Tự Tánh rất nghiêm trọng rồi, sai lầm cho rằng những giả tướng hư ảo này đều là thật, sự sai lầm này quá lớn rồi. Ngày nay vì sao thế giới loạn đến như vậy? Tất cả đều là phát sanh từ tự tư tự lợi. Căn bản không có tự tư tự lợi, tại sao vậy? Vì không có ta, nên tìm không thấy ta, ta ở đâu? Nên lợi ích của ta ở chỗ nào? Quý vị chỉ cần nghĩ đến 1 phần 2.240.000 tỷ giây. Cho nên khoa học có sự giúp đỡ rất lớn đối với Phật pháp. Tại sao? Bởi một búng ngón tay mà trong Kinh nói, chúng ta không có khái niệm, khi nhà khoa học nói điều này, thì chúng ta có khái niệm. Một giây, là mấy phần của bao nhiêu phần trong một giây, Bồ-tát Di Lặc nói với chúng ta, chân tướng sự thật là 1 phần 2.240.000 tỷ của 1 giây. Không thể có được. Hình ảnh này: chính là trong Kinh Bát Nhã đã nói一切法 ( là tất cả pháp), thực sự hiện ra chính là tất cả pháp, là toàn bộ vũ trụ, hiện ra tất cả pháp. Tất cả pháp đó thực sự là không sở hữu, rốt ráo không, không thể được. Quý vị có thể quan sát trọn điều này, thì quý vị sẽ buông xuống triệt để thôi, nếu buông xuống triệt để điều này, thì quý vị sẽ gần hơn đáng kể với cảnh giới của đức Phật rồi. Tại sao vậy? Vì dẫn dắt quý vị đến địa vị Bồ-tát, tuy không biết khi nào thì Đại triệt Đại ngộ, nhưng chắc chắn Đại triệt Đại ngộ, họ không ngộ, chính là do điều này chướng ngại, chính là buông không xuống, buông không xuống tất cả pháp. Hiện tại biết tất cả pháp là giả, tất cả pháp không phải là thật, không có một thứ nào tồn tại. Đây là hoàn cảnh thực tế, không phải quá khứ, cũng không phải tương lai, mà chính là hiện tại. Đây là thật tướng và là chân lý, những thứ khác chính là vọng tưởng hư huyễn, không phải là thật. Cho nên Phật Bồ-tát, đến thế gian này để làm gì? Là đến ban cho chúng ta, chữ huệ này là ân huệ, là ban cho chúng ta, ban cho chúng ta Lợi ích Chân thật. Bộ Kinh Vô Lượng Thọ này của Tịnh tông là chân thật ngay trong chân thật, lại hết sức chân thật rồi. Nên chúng ta không thể lơ là, không thể không chú ý. Không phải ngàn năm khó gặp, mà ở trong vô lượng kiếp khó gặp được một lần, ngàn năm không khó, một ngàn năm, sau này ngàn năm tiếp theo, rất ngắn, vô lượng kiếp đó. Thực sự là Lợi ích Chân thật.

          Ở đây nói, chúng ta nhìn thấy ở trong đoạn kinh văn này, 住真實慧。此三句雖各有異,而其真實則不二也  “trụ Chân thật huệ. Thử tam cú tuy các hữu dị, nhi kỳ chân thật tắc bất nhị dã” (trụ Trí huệ Chân thật. Ba câu này tuy mỗi câu có khác nhau, mà thật sự đó là không hai). Chân thật Chi tế, Chi tế, Chi lợi và Trí huệ, giống như là ba sự việc, nhưng ba sự việc này đều là chân thật, ba điều chân thật hợp lại là một điều chân thật. Phần dưới nói với chúng ta, 真者,真如也。實者,實相也 “chân giả, Chân Như dã. Thật giả, Thật tướng dã” (chân: là Chân như. Thật: là Thật tướng). Chân Như là nói từ trên Thể, Thật tướng là nói từ trên Tác dụng. Thể có thể hiện Tướng, mặc dù hiện Tướng, nhưng cũng không chấp tướng, phải hiểu rõ đạo lý này. Thể là thật, còn Tướng là giả. Tướng không tách rời Thể, rời Thể thì không có Tướng. Cho nên tướng sanh từ tâm, mặc dù tướng sanh từ tâm, nhưng tướng không phải là Thể. Tuy Thể không có tướng, nhưng Thể có thể sanh tướng. Giống như chúng ta nằm mộng, mỗi người chúng ta biết nằm mộng, nằm mộng là tiềm thức, tiềm thức không phải là mộng, có thể hiện cảnh mộng, ở ngay trong cảnh mộng là hai điều, một là tướng, tướng được sanh; Một là thức có thể sanh. Cần phải làm rõ ràng, làm sáng tỏ, tất cả không thể chấp trước, nếu chấp trước Thể thì sai rồi, mà chấp trước Tướng cũng sai rồi. Tất cả đều không thể chấp trước, thì đúng rồi. Chính là không có Khởi tâm, không có Động niệm, không có Phân biệt, không có Chấp trước, thì hoàn toàn chính xác. Chư Phật Bồ-tát chính là hi vọng dẫn chúng ta tới cảnh giới này, đó là cảnh giới thật sự giác ngộ. Chân, là Chân Như, còn Thật, là Thật tướng, tình hình thực tế mà luận, trong giáo lý Đại thừa chính là cõi Thật Báo Trang Nghiêm, cõi Thật Báo Trang Nghiêm là Thật tướng, còn Sáu đường luân hồi, Mười pháp giới của chúng ta giả tướng. Vậy giả tướng đến như thế nào? Là nương vào Thật tướng mà đến, trong Thật tướng thêm vào A-lại-da ở bên trong: liền biến thành giả tướng, Thật tướng chính là cõi Thật Báo Trang Nghiêm, còn giả tướng chính là Mười pháp giới, chính là Sáu đường luân hồi, phải làm rõ ràng điều này. Thật giả đều không thể tham luyến, thật còn không thể tham luyến, huống hồ là giả? Cho nên công phu tu hành là như thế nào? Đó chính là buông xuống, buông xuống là công phu.

          Tiếp theo, trong Kinh Quán Phật Tam Muội nói: 佛地果德,真如實相,第一義空 “Phật địa quả đức, Chân Như Thật tướng, Đệ nhất Nghĩa không” (Quả đức của địa vị Phật, Chân Như Thật tướng, Đệ nhất Nghĩa không). Đệ nhất Nghĩa không là rốt ráo Không, vốn là Không, không thể được. Vậy Không này là gì? Là đó không có hiện tượng vật chất, không có hiện tượng ý niệm, cũng không có hiện tượng tự nhiên. Đây gọi là Đệ nhất Nghĩa không. Mặc dù đều không có gì, nhưng quý vị không thể khởi tâm động niệm, nếu khởi tâm động niệm thì mê rồi, đó chính là không giác, chính là Vô minh, từ Vô minh đó liền sẽ biến hiện ra Mười pháp giới, biến hiện ra Sáu đường luân hồi, hoàn toàn là giả. Nói Đệ nhất Nghĩa không chính là bảo quý vị không nên chấp trước, không khởi tâm, không động niệm, đức Phật nói Chân Như Thật tướng ở ngay phía trước.

 Câu tiếp theo đây là giải thích Chân thật Chi tế cho chúng ta. Thế nào gọi là Chân thật Chi tế? Là 窮極真如實相之源底 “cùng cực Chân Như Thật tướng chi nguyên để” (tận cùng triệt để ngọn nguồn của Chân Như Thật tướng), là ngọn nguồn, chính là triệt để làm sáng tỏ, khi làm rõ ràng rồi. Thì năng hiện là Tự Tánh, sở hiện là vũ trụ, thật sự làm rõ ràng, làm sáng tỏ, gọi là Chân thật Chi tế, Chân thật Chi tế là điều mà nhà Khoa học, nhà Triết học hiện nay truy cầu. Khoa học 400 năm qua, đã khám phá ra bí mật của hiện tượng vật chất, đã phơi bày đáp án này rồi, là thành tựu tuyệt vời. Đã phơi bày nói với chúng ta điều gì? Là giống như trong Kinh Phật giảng, 相由心生,色由心生 “tướng do tâm sanh, sắc do tâm sanh” (tướng sanh từ tâm, sắc sanh từ tâm). Trong kinh Phật giảng tướng, giảng sắc, đều là giảng về vật chất, vật chất đến từ đâu? Là đến từ ý niệm. Tâm chính là ý niệm, ý niệm có trước, còn vật chất có sau, vật chất là sanh ra từ ý niệm. Hiện nay nhà Khoa học, đã phơi bày đáp án thứ nhất, hiện tại nghiên cứu mệnh đề thứ hai, chính là ý niệm. Quý vị xem nhà Khoa học cận đại nghiên cứu về niệm lực, niệm lực không thể nghĩ bàn, niệm lực không có giới hạn, loại sách này xuất bản rất nhiều. Chúng ta tin tưởng sau hai-ba mươi năm, thì ý niệm là gì cũng được làm sáng tỏ, cũng được làm rõ ràng thôi. Sau cùng còn có hiện tượng tự nhiên, trong kinh Đại thừa có, đức Thích Ca Mâu Ni Phật nói dùng Ý thức, Ý thức chính là phân biệt, là sự phân biệt của Ý thức Thứ sáu, năng lực của Ý thức Thứ sáu vô cùng lớn, đều duyên đến được tất cả bên trong lẫn bên ngoài, nhưng duyên không đến Tự Tánh. Cho nên nói dùng Ý thức Thứ sáu có thể duyên đến Tam tế tướng của A-lại-da, đó là do đức Phật nói. Ngày nay nhà Khoa học quả nhiên làm đến rồi, hiện nay vẫn chênh lệch một chút, đại khái vẫn cần công phu mấy chục năm, thì làm sáng tỏ Tam tế tướng của A-lại-da.

          Tam tế tướng của A-lại-da chính là: Nghiệp tướng, đây là tướng thứ nhất; Chuyển tướng, là tướng thứ hai; Cảnh giới tướng là tướng thứ ba. Cảnh giới tướng là vật chất, còn Chuyển tướng là ý niệm, chính là chuyển biến, biến hóa. Biến hóa đến từ đâu? Là từ Chuyển tướng. Còn chuyển tướng đến từ đâu? Là từ Nghiệp tướng. Vậy Nghiệp tướng là gì? Nghiệp tướng là một niệm bất giác, đây là ban đầu nhất, gọi là Vô thỉ Vô minh. Vô thỉ Vô minh, chữ vô này hay, không có bắt đầu. Mê rồi, mê thì không có bắt đầu, vậy có kết thúc không? Cũng không có kết thúc, tại sao vậy? Vì là giả, không phải là thật. Nếu có bắt đầu, thì phải có kết thúc, đó là thật sự, chứ không phải là giả. Nhưng đó là giả tướng, giống như nằm mộng vậy, giấc mộng khi nào bắt đầu? Nếu tỉnh mộng rồi, thì khi nào thì kết thúc? Có trước sau không? Là không có, vì sao không có? Vì tìm không thấy vết tích. Đức Phật dùng điều này làm ví dụ cho chúng ta, để cho chúng ta có một khái niệm. Có một khái niệm để thế nào? Là không cần đi nghiên cứu triệt để, nếu ta đi tìm chỗ bắt đầu, thì quý vị lại mê nữa, quý vị không tìm thì không sao, quý vị liền ngộ rồi, một khi quý vị tìm, thì quý vị lại mê nữa. Nói với quý vị, là không thể tìm, vì đó là giả, muốn tìm thì tìm chân, không tìm giả.

          Phần tiếp theo nói, 當來一切含靈,皆因彌陀一乘願海,六字洪名,而得度脫者,真實之利也 “đương lai nhất nhiết hàm linh, giai nhân Mi Đà Nhất thừa nguyện hải, lục tự hồng danh, nhi đắc độ thoát giả, Chân thật Chi lợi dã” (tất cả chúng sanh tương lai, đều dựa vào biển nguyện Nhất thừa của đức Mi Đà, sáu chữ hồng danh, mà được độ thoát, là Lợi ích Chân thật). Câu này vô cùng quan trọng, câu này quá hay rồi, nhất định không thể lơ là. Nếu chúng ta có thể nắm chắc được câu này, thì thật sự đạt được Lợi ích Chân thật của đời này rồi. Lợi ích Chân thật đó, là đời này của chúng ta thành tựu viên mãn rồi, mãi mãi thoát khỏi Lục đạo luân hồi, đến Thế giới Tây Phương Cực Lạc, người người đều có thể đi, chỉ cần quý vị gặp được bộ Kinh điển này, quý vị tin tưởng phương pháp này, y giáo phụng hành, thật làm.  能不能往生決定在信願之有無 “Năng bất năng vãng sanh quyết định tại tín nguyện chi hữu vô” (Có thể vãng sanh hay không quyết định ở có tín nguyện hay không). Cần phải ghi nhớ câu này. Trong Mi Đà Kinh Yếu Giải, Đại sư Ngẫu Ích nói với chúng ta rất rõ ràng, quý vị chỉ cần tin tưởng có Thế giới Cực Lạc, đều không có chút hoài nghi nào, nguyện sanh, ta thật sự muốn đến Thế giới Cực Lạc thân cận A Mi Đà Phật, thì điều kiện vãng sanh này liền đầy đủ rồi, sanh đến Thế giới Cực Lạc, Thế giới Cực Lạc thật sự có bốn cõi ba bậc chín phẩm, đó chính là cấp bậc của các ngài. Giống như nói đó là trường học, đó có Tiểu học, có Trung học, có Đại học, có Viện nghiên cứu, có bốn bậc, là có cấp bậc, sau khi quý vị đến bên đó, thì quý vị là xếp ở cấp bậc nào, đó là công phu niệm Phật sâu hay cạn, cho nên niệm Phật quản sự việc này, niệm Phật không quản vãng sanh, còn vãng sanh không quản phẩm vị, vãng sanh chỉ là hoan nghênh quý vị đến, xếp đặt phẩm vị là công phu niệm Phật sâu cạn. Nhớ kỹ, không phải là bao nhiêu, mà là công phu sâu cạn.

          Thế nào gọi là công phu? Là niệm sạch phiền não gọi là công phu. Nếu toàn bộ phiền não đều còn, thì đới nghiệp vãng sanh, đó là bậc thấp nhất, Phàm Thánh Đồng Cư độ, một phẩm phiền não cũng chưa đoạn. Đã đoạn mấy phẩm phiền não, thí dụ nói giống như Tiểu thừa, buông xuống Chấp trước rồi, chúng ta có thể ở ngay trong cuộc sống không chấp trước điều gì, thứ gì cũng tùy duyên, điều gì cũng tốt, không còn chấp trước nữa, không phân biệt nữa. Làm được hai điều này, hai điều này đều là Tiểu thừa, Thanh văn, Duyên giác, thì sanh Phương Tiện Hữu Dư độ. Nếu có thể không khởi tâm, không động niệm, vậy thì sanh Thật Báo Trang Nghiêm độ, giống như là gì? Là bước vào Viện nghiên cứu của các ngài, là cõi Thật Báo. Còn cõi Phương Tiện đó là Đại học; Còn cõi Phàm Thánh Đồng Cư là bậc Tiểu học và Trung học, công phu niệm Phật sâu cạn, sâu cạn ở buông xuống. Cao nhất là, mắt thấy sắc, tai nghe âm thanh thì không khởi tâm, không động niệm, là cao nhất, không có Khởi tâm Động niệm, vậy tu hành thì tu ở chỗ nào? Là tu ở trong hồng trần, rời khỏi hồng trần, nếu rời khỏi nơi đó, thì quý vị đến chỗ nào để luyện tập. Mắt không nhìn sắc, tai không nghe âm thanh, thì quý vị luyện tập như thế nào? Bảo quý vị thấy sắc, bảo quý vị nghe âm thanh, mà ngay trong thấy sắc nghe âm thanh không khởi tâm, không động niệm, là công phu bậc nhất, Lý nhất tâm Bất loạn, sanh cõi Thật Báo; Công phu bậc hai, [là] quý ngài có Khởi tâm Động niệm, nhưng không có Phân biệt Chấp trước, đó là sanh cõi Phương Tiện Hữu Dư; Tầng thứ ba là công phu cũng không đến nơi, Khởi tâm Động niệm, Phân biệt Chấp trước toàn bộ đều có, thì đó là cõi Phàm Thánh Đồng Cư. Cho nên chính chúng ta rõ ràng, chúng ta sanh đến đó là đến cõi nào? Chắc chắn là cõi Phàm Thánh Đồng Cư. Vậy có được không? Được, chỉ cần vãng sanh, là được. Chính Đại sư Ngẫu Ích, [có] người khác hỏi ngài, khi ngài vãng sanh Thế giới Cực Lạc, phẩm vị thế nào thì ngài hài lòng? Ngài trả lời, vãng sanh Hạ hạ phẩm thì tôi hài lòng rồi. Nói cách khác, là chỉ cần vãng sanh.

          Tu hành ở Thế giới Tây Phương Cực Lạc nhanh, Thế giới mười phương thành Phật cần ba đại a-tăng-kỳ kiếp, nhưng Thế giới Cực Lạc thì không cần, ở đó quá nhanh rồi. Tại sao? Vì thọ mạng đã quá dài, là vô lượng thọ, nơi đó là Pháp tánh độ, không giống nơi này của chúng ta, nơi này của chúng ta là có sanh có diệt. Động vật thì có sanh già bệnh chết, thực vật có sanh trụ dị diệt, khoáng vật có thành trụ hoại không, đây đều là có tai nạn. Còn Thế giới Cực Lạc không có, người, là vô lượng thọ; Hoa cỏ cây cối cũng vô lượng thọ, hoa là vĩnh viễn nở, không có hoa nở hoa tàn; Núi sông đất đai vĩnh viễn là đẹp như vậy, thù thắng như vậy, nơi đó không có tướng sanh diệt. Cho nên Thế giới Cực Lạc là thân Pháp tánh, thân Pháp tánh không cần ăn uống, cũng không cần ngủ. Chỗ này của chúng ta là nghỉ ngơi, ban ngày làm việc buổi tối nghỉ ngơi. Thế giới Cực Lạc không cần nghỉ ngơi, không có nghỉ ngơi, cho nên công phu của các ngài là liên tục dụng công. Quý vị đến Thế giới Cực Lạc, hoa nở thấy Phật, tiến vào giảng đường, thì giảng đường có chỗ ngồi của quý vị, trên chỗ ngồi có tên của quý vị, sẽ không ghi sai, quý vị liền ngồi ở chỗ của mình nghe A Mi Đà Phật giảng kinh thuyết pháp. Khi nào thì tan học rời khỏi giảng đường? Là thành Phật, nếu chưa thành Phật, thì nhất định không ra khỏi chỗ ngồi, chỉ một khóa học thì thành Phật rồi. Còn thời gian một khóa học đó dài ngắn không cố định, vì có người thành Phật nhanh, có người thành Phật chậm. Tóm lại, nếu chưa Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, thì quý ngài chắc chắn sẽ không rời khỏi giảng đường. Tuyệt diệu biết bao! Người người thành tựu, đó chính là nhất định thành Chánh giác, nhất định thành Đẳng Chánh Giác. Khi ở giảng đường nghe giảng, tuy thân không rời khỏi giảng đường, nhưng thân có thể khởi tác dụng. A Mi Đà Phật cũng giảng pháp, giảng kinh ở giảng đường, không hề gián đoạn, nhưng A Mi Đà Phật đồng thời phân vô lượng vô biên thân, để đi đến nơi nào? Là đến cõi nước của mười phương chư Phật, để làm gì? Để tiếp dẫn người vãng sanh. Mỗi người niệm Phật vãng sanh, nếu không có đức Phật đến tiếp dẫn, thì họ không biết Thế giới Cực Lạc ở đâu, nên Ngài nhất định đến tiếp dẫn. Cho nên Ngài phân thân đi tiếp dẫn chúng sanh. Còn học trò cũng có thể phân thân, giống như A Mi Đà Phật, có thể phân vô lượng vô biên thân, để làm gì? Để đến Thế giới mười phương bái Phật, đi cúng dường Phật, là tu phước, còn nghe Phật giảng kinh thuyết pháp là tu huệ. Quý vị xem chẳng những là nghe pháp ở giảng đường của đức Mi Đà, mà chư Phật mười phương thuyết pháp thì đều tham dự tất cả, đã tham gia pháp hội. Nhưng còn có một tác dụng thứ hai, là dùng Ứng hóa thân của chính mình đi độ hóa chúng sanh có duyên ở Lục đạo Mười pháp giới của cõi nước chư Phật. Thế giới Cực Lạc hết sức náo nhiệt, mặc dù hết sức náo nhiệt, nhưng nói với quý vị, các ngài không có Khởi tâm Động niệm, sự kỳ diệu này, là diệu hạnh! Không có Khởi tâm Động niệm, càng không có Phân biệt Chấp trước. Cho nên viên mãn thành Phật, rất nhanh thì thành Phật thôi.

          Có thể không đến nơi đó sao? Thế giới này là giả, có thể không buông xuống hay sao? Buông xuống thì đúng, công phu niệm Phật liền thành tựu, liền có thể nâng cao. Cho nên Kinh giáo có sự giúp đỡ đối với chúng ta, chính là dạy chúng ta đem chân tướng của Thế giới Cực Lạc, chân tướng sự thật về thế gian hiện tại này của chúng ta, tất cả làm rõ ràng, làm sáng tỏ, sau đó chính mình thực hiện lựa chọn, là đi đến nơi nào? Thế gian có không ít người đều nói tai nạn, chúng ta cũng đã nghe đến, chúng ta nghe đến thì phản ứng thế nào? Là tốt, tai nạn đến rồi, thì cơ hội đến Thế giới Cực Lạc cũng tới rồi, ta liền niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, ta cũng không có ý niệm gì, ta cũng không muốn đi né tránh tai nạn, ta chỉ niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, quá tốt rồi! Buông xuống vạn duyên. Có thể đi hay không? Nếu quý vị thật sự phát tâm đó, thì thật sự A Mi Đà Phật đến tiếp dẫn, thật đến, không phải giả. Không thể bỏ lỡ qua cơ hội này.

          Cho nên tất cả hàm linh trong tương lai, đều nương vào biển nguyện Nhất thừa của A Mi Đà Phật, biển nguyện Nhất thừa chính là 48 nguyện, trong 48 nguyện, mỗi nguyện đều là giúp đỡ chúng sanh nhanh chóng thành Phật, cho nên gọi là biển nguyện Nhất thừa. Phương pháp mà Ngài dùng chính là sáu chữ hồng danh, chính là một câu Nam Mô A Mi Đà Phật, mà được độ thoát, độ thoát chính là thành Phật. Đó là Lợi ích Chân thật, lợi ích đó là vĩnh hằng, là quý vị mang đi được. Còn danh văn lợi dưỡng, Ngũ dục Lục trần của thế gian, đều mang không được một thứ gì. Cho nên hiện tại đều phải xem nhẹ mọi thứ, không so đo, không chấp trước, có thì rất tốt, không có cũng tốt, không đặt ở trong tâm. Nhất định phải đặt tín nguyện ở trong tâm, đặt niệm Phật ở trong tâm, tín nguyện là chúng ta có thể vãng sanh hay không, niệm Phật là chúng ta đến Thế giới Cực Lạc xếp lớp, xếp vào phẩm vị nào. Đó đều là mang đi được, đó đều là Lợi ích Chân thật.

能顯此真實之際,惠此真實之利者,即此真實之慧也 “Năng hiển thử Chân thật Chi tế, huệ thử Chân thật Chi lợi giả, tức thử Chân thật Chi huệ dã” (Có thể hiển lộ điều Chân thật Chi tế này, ban cho Lợi ích Chân thật, chính là Trí huệ Chân thật). Đó là đã nói ra Trí huệ Chân thật. Tại sao quý vị có thể đạt được Lợi ích Chân thật? Tại sao quý vị có thể chứng đắc Chân thật Chi tế? Chân thật Chi tế là Tự Tánh, chính là Minh tâm Kiến tánh, tất cả là trí huệ. Tác dụng của trí huệ to lớn rồi, phía sau giải thích cho chúng ta, về Huệ, quyển thứ hai của Đại Thừa Nghĩa Chương nói: 據行方便,觀達為慧,真心體明,自性無闇,目之為慧。是乃以明自本心,見自本性,方名慧也 “Cứ hành phương tiện, Quán đạt vi Huệ, Chân Tâm thể minh, Tự Tánh vô ám, mục chi vi Huệ. Thị nãi dĩ minh tự Bổn tâm, kiến tự Bổn tánh, phương danh huệ dã”(Dựa vào hành phương tiện, Quán thông đạt là huệ, thể của Chân Tâm sáng suốt, Tự Tánh không có tối tăm, gọi đó là Huệ. Ấy là dùng sáng tỏ Bổn tâm của chính mình, thấy Bổn tánh của chính mình, mới gọi là Huệ). Chân thật chi huệ đó là Kiến tánh, nếu chưa Kiến tánh, thì không có Trí huệ. Cứ là căn cứ, căn cứ, hành là phương tiện tu hành, phương tiện vô lượng vô biên. Ở mắt gọi là thấy, ở tai gọi là nghe, chúng ta nêu ra ví dụ này, thấy là trí huệ, điều thấy chân thật là gì? Là thấy rất rõ ràng, rất sáng tỏ, mà không có Khởi tâm Động niệm, không có Phân biệt Chấp trước, đó là Huệ. Nếu quý vị nhìn thấy mà khởi tâm động niệm rồi, thì không có chân trí huệ nữa, là khởi lên điều gì rồi? Người hiện nay gọi là tri thức. Tri thức là thuộc về A-lại-da, Vọng tâm khởi tác dụng, là tri thức, quý vị biết, quý vị nhận biết rồi. Còn trí huệ là Tự Tánh khởi tác dụng, là Chân Tâm. Chân Tâm khởi tác dụng gọi là trí huệ, còn vọng tâm khởi tác dụng gọi là tri thức. Khoa học là thuộc về tri thức. Do vậy mặc dù tri thức có thể biết, nhưng không có tác dụng. Nếu là Bát địa Bồ-tát, thần thông rộng lớn, thì Chân Tâm khởi tác dụng, nên sáu loại thần thông đều đã hiện tiền. Sáu loại thần thông của A-la-hán đã hiện tiền rồi, đó là bậc sơ cấp, tiểu thần thông, còn bậc Bát địa trở lên là thần thông viên mãn, không khác với trên quả địa Như Lai. Cho nên phải biết điều này.

          Hành phương tiện, chính là sáu căn tiếp xúc trong cảnh giới sáu trần, nhớ kỹ, là luyện tập điều gì? Luyện như như bất động, luyện không để ở trong tâm. Nếu để ở trong tâm thì quý vị sẽ có Phân biệt, sẽ có Chấp trước, ý niệm thiện ác khởi lên, thì tạo nghiệp rồi, nghiệp thiện thì cảm ba đường thiện; Còn nghiệp ác thì cảm ba đường ác, vậy thì sai rồi. Đối với người thế gian, là người không biết rời khỏi sáu đường luân hồi mà nói, thì tính là không tệ rồi, tại sao? Vì dạy họ không đọa ba đường ác, giúp đỡ họ tu phước báu trời người, đời sau họ được quả báo trời người, không đọa ba đường ác. Nhưng đối với người học Phật mà nói thì sai rồi, hoàn toàn sai rồi. Hạn độ thấp nhất của Phật pháp là có thể giúp đỡ chúng ta ra khỏi sáu đường luân hồi, vãng sanh Thế giới Cực Lạc, đó là thật. Mãi mãi lìa khổ được vui, không bao giờ tạo ra Sáu đường luân hồi nữa. Nhưng lại đến sáu đường là thế nào? Là Pháp thân Bồ-tát, Bồ-tát dùng Ứng hóa thân đến thế giới này để cứu khổ cứu nạn, không phải các ngài đến để tạo nghiệp, các ngài là đến để thị hiện, là để độ hóa chúng sanh. Cho nên nói là Quán đạt là Huệ, Quán, là quán sát; còn đạt, là thông đạt, không có chướng ngại, đó là Huệ. Bên trong Quán không có Khởi tâm Động niệm. Nếu Khởi tâm Động niệm thì không gọi là Quán. Nói Phật pháp tu hành có Chỉ có Quán, Chỉ chính là buông xuống, Quán chính là thông đạt rõ ràng, không có thông qua suy nghĩ, nhưng nhìn được rất rõ ràng, rất sáng tỏ, chính là không có Khởi tâm Động niệm, không có Phân biệt Chấp trước, đó gọi là Quán. Nếu có Phân biệt Chấp trước, đó gọi là Chấp, tình chấp, điều này nghiêm trọng, điều này tạo nghiệp sáu đường luân hồi. Nếu có Phân biệt, nhưng không có Chấp trước, vẫn tính không tệ, là của Mười pháp giới. Có Khởi tâm Động niệm, nhưng không có Phân biệt Chấp trước, thì siêu vượt Sáu đường rồi. Phân biệt Chấp trước không phải là việc tốt, nhất định phải biết.

Tóm lại, 是乃以明自本心,見自本性 “thị nãi dĩ minh tự Bổn tâm, kiến tự Bổn tánh” (đó là dùng sáng tỏ Bản tâm của chính mình, thấy Bổn tánh của chính mình), đây chính là Minh tâm Kiến tánh, đó mới gọi là Huệ. Đó là Huệ chân thật. Thế nào gọi là chân thật? Trong quyển thứ hai của Đại Thừa Nghĩa Chương nói: 法絕情妄,名為真實 “Pháp tuyệt Tình Vọng, danh vi chân thật” (Pháp đoạn tuyệt Tình và Vọng, gọi là chân thật). Vừa nãy, tôi đã nói, Tình là Phân biệt Chấp trước, còn Vọng là Khởi tâm Động niệm, nếu không có Khởi tâm Động niệm, không có Phân biệt Chấp trước, thì đó là chân thật, giống với Phật Bồ-tát. Phật Bồ-tát ứng hóa tại thế gian, là không có Khởi tâm Động niệm, không có Phân biệt Chấp trước. Năm xưa, đức Thích Ca Mâu Ni Phật ứng hóa ở Ấn Độ, là 3000 năm trước, Ngài giáo hóa chúng sanh, tám tướng thành đạo, là thị hiện tám tướng thành đạo, để giáo hóa chúng sanh, nhưng không có Khởi tâm, không có Động niệm, không có Phân biệt, không có Chấp trước, là chân thật, không giống như chúng ta, chúng ta đều có, đều có Khởi tâm Động niệm, Phân biệt Chấp trước, đều có chính là tạo nghiệp, nghiệp thiện thì cảm ba đường thiện, nghiệp ác thì cảm ba đường ác, vậy đời sau đi đến chỗ nào? Là đến sáu đường luân hồi. Phật Bồ-tát ứng hóa ở thế gian không tạo nghiệp, vậy giảng kinh thuyết pháp 49 năm, có hay không? Có. Chúng ta xem thấy trong lịch sử ghi lại, lưu lại nhiều kinh luận như vậy, làm sao nói không có? Nhưng Phật nói Ngài không có thuyết kinh, Ngài chưa từng nói một câu pháp nào, nếu có người bảo Ngài thuyết pháp là báng Phật. Lời đó là thế nào? Là ý nghĩa gì? Là Ngài không có Khởi tâm, không có Động niệm, không có Phân biệt, không có Chấp trước, Ngài nói những gì? Không có nói. Không có nói, sao nói nhiều như vậy? Là Tự Tánh lưu lộ, rất tự nhiên lưu xuất ra, tuy ngôn ngữ nhiều như vậy, nhưng không thông qua suy nghĩ của Ngài. Hiện nay chúng ta điều gì phải nghĩ một chút, muốn viết thứ đó phải suy nghĩ một chút; Ngài không có, Ngài liền như vậy mà đưa ra rồi. Đã thuyết rất nhiều. Quý vị lại hỏi Ngài thuyết những gì? Không biết. Điều đó còn dấu vết hay không? Có, nếu quý vị tỉ mỉ đi quan sát dấu tích, thì chúng ta có thể lãnh hội từ trên dấu tích, về sau đối với sự việc này thì sẽ khẳng định, không hoài nghi.

Những Pháp sư giảng kinh thuyết pháp, đặc biệt là lão Pháp sư, quý ngài [có] kinh nghiệm phong phú, khi quý ngài lên đài giảng kinh, giảng được rất hay. Có phải quý ngài nói hay không? Không phải, quý vị ghi lại, đợi khi quý ngài xuống đài rồi hỏi lại, thì quý ngài sẽ hỏi quý vị: đây là của tôi giảng sao? Là không tệ! Là tôi giảng sao? Quý ngài vẫn hoài nghi. Phải, là ghi lại cho ngài. Tôi làm sao biết nói ra lời này? Từ trong cảnh tượng này, chúng ta liền biết được, là Tự Tánh lưu lộ, là thật, không phải giả. Rõ ràng nhất là lão Hòa thượng Đế Nhàn, bởi vì lão Hòa thượng Đế Nhàn giảng kinh, năm đó có vị đại Cư sĩ ghi bút ký, là Cư sĩ Giang Vị Nông, những vị đại Cư sĩ ấy, họ ghi bút ký cho ngài, tự mình ghi bút ký, sau này chỉnh lý ra làm thành giảng ký. Cho nên sau mỗi bài giảng, những gì họ ghi lại đều thỉnh cầu lão Hòa thượng xem. Sau khi lão Hòa thượng xem xong thường hỏi họ: lời này là tôi giảng sao? Phải, không sai. Đúng, nhưng tôi làm sao có khả năng giảng được ra? Lúc đang giảng là thế nào? Là không có dùng Phân biệt, không có dùng Chấp trước, tuy có Khởi tâm Động niệm, nhưng không có Phân biệt Chấp trước, thì Tự Tánh lưu lộ. Đến chính chúng ta, có lúc cũng có hiện tượng này, không có ai ghi cho quý vị, nhưng bây giờ có máy móc, có máy ghi âm ghi cho quý vị, rồi quý vị nghe lại, cũng rất có đạo vị, ta giảng được không tệ. Cho nên chúng ta phải tin tưởng không có thầy mà tự thông, cần tin tưởng, đọc sách ngàn lần, tự hiểu nghĩa của sách. Chính ngài đã hiểu rõ, chính mình hiểu rõ tự mình nói ra, người khác ghi lại, cầm cho ngài xem, còn chính ngài không biết. Cho nên đó là thật, đó không phải là giả.

          Cho nên pháp đoạn tuyệt Tình và Vọng, gọi là chân thật. Chúng ta tu hành thì cần biết, cho nên chúng ta thường nói, chúng ta phải dùng Chân tâm, trong cuộc sống dùng Chân tâm, trong công việc dùng Chân tâm, đối người tiếp vật đều dùng Chân tâm. Tại sao? Vì dùng Chân tân tương ưng với điều này, rất có thể ở ngay trong đời này, chúng ta liền có cơ hội khế nhập. Tại sao vậy? Vì mọi người cuộc sống đều dùng Vọng tâm. Vọng tâm chính là tâm Phân biệt, tâm Chấp trước, điều này không tốt. Vọng thì cảm ứng cùng với vọng, cảm ứng cùng với Sáu đường luân hồi. Chân cảm ứng với chân, cảm ứng với Thế giới Cực Lạc, nhất định không thiệt thòi, trước mắt có thể chịu thiệt thòi, có thể bị mắc lừa, nhưng sẽ thế nào? Tương lai quý vị đến Thế giới Cực Lạc rồi, thì chịu thiệt là giả. Giả thì nên chịu thiệt thòi, thì mới đạt được Lợi ích Chân thật. Giả mà không chịu thiệt, thì không đạt được Lợi ích Chân thật. Không thể không biết điều này. Cho nên phải chân thật với người. Người khác giả dối với ta, ta biết hay không? Có phần biết, có phần không biết, biết hay không biết không quan trọng. Đó là họ không phải ta. Họ vẫn còn lưu luyến sáu đường luân hồi, vượt không ra khỏi bốn cửa ải tài sắc danh lợi, họ vẫn vượt không ra được, còn chúng ta thì vượt qua rồi, cho nên liền không so đo nữa. Họ lừa ta, hãm hại ta, xúc phạm ta, đều không sao cả. Nếu ta có thể chịu đựng được, ta có thể nhẫn nhục, thì chúng ta sẽ có thành tựu. Cho nên dùng chân, học dùng chân, bởi vì Phật Bồ-tát hoàn toàn là chân thật, từ bậc A-la-hán trở lên đều dùng Chân tâm, đều không dùng Vọng tâm. Bậc A-la-hán của Tiểu thừa, mặc dù A-lại-da Thức chưa có thể chuyển trở lại, nhưng quý ngài vô ngã rồi, đã phá thân tướng, quý ngài không chấp trước thân là ta. Vậy thì rất cao minh, rất tuyệt vời rồi, so ra kém với niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, niệm Phật sanh Tịnh Độ quá khó, quá thù thắng rồi.

法絕情妄,名為真實 “Pháp tuyệt Tình Vọng, danh vi chân thật” (Pháp dứt hết Tình và Vọng, gọi là chân thật), câu này trong Đại Thừa Nghĩa Chương. 故即離妄之本真,亦即自性清淨心 “Cố tức li Vọng chi bổn chân, diệc tức Tự Tánh thanh tịnh tâm” (Cho nên liền xa rời căn nguyên của Vọng, cũng tức là tâm thanh tịnh của Tự Tánh), đây là gì? Chân thật là thế nào? Chân thật chính là xa rời căn nguyên của vọng, Chân tâm vốn có của quý vị, Tự Tánh vốn có của quý vị, cũng chính là tâm thanh tịnh của Tự Tánh. Là Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác trên đề Kinh này của chúng ta. Đạt được mục thứ nhất là tâm Thanh tịnh rồi. Đạt được tâm Thanh tịnh rồi, thì niệm Phật niệm bao nhiêu? Một câu, mười câu thì vãng sanh thôi. Sẽ sanh đến tầng bậc nào? Là sanh đến cõi Phương Tiện Hữu Dư, là học Trung học, không phải học Tiểu học. Một tiếng, mười tiếng liền có thể vãng sanh, tại sao vậy? Vì quý vị có công phu, đây là nói công phu niệm Phật, chứ không phải niệm Phật nhiều hay ít. Quý vị dùng tâm thanh tịnh để niệm Phật, thì công phu này cao, ngang bằng bậc A-la-hán. Nếu quý vị dùng tâm bình đẳng niệm Phật, thì quý vị ngang bằng bậc Bồ-tát, thứ bậc càng cao. Phải làm rõ ràng, làm sáng tỏ đạo lý này, đời này của chúng ta rất có nắm chắc vãng sanh. Cần phải nâng cao phẩm vị của chúng ta, chính là phai nhạt vạn sự vạn vật ở thế gian này, điều gì cũng đều tùy thuận. Nếu tùy thuận thì mọi người hoan hỉ, ta không đối lập với người, ta cũng không đối lập với sự, cũng không đối lập vạn vật, không có đối lập. Vì sao không có đối lập? Vì là một thể, trời đất cùng một gốc với ta, vạn vật cùng một thể với ta, thật tuyệt vời! Hưởng thụ này, ta yêu vạn vật, vạn vật yêu ta, ta yêu chúng sanh, chúng sanh yêu ta, là một không phải hai. Cảnh giới này thật tốt, cảnh giới này tốt đẹp biết bao.

          Học Phật, đức Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh thuyết pháp 49 năm, chưa từng gián đoạn. Tại sao vậy? Vì vui, điều đó vui biết bao, rất vui vẻ! Hôm nay căn phòng này của chúng ta, mấy người chúng ta vui vẻ, pháp hỉ sung mãn, đây là hưởng thụ, đó là hưởng thụ năng lượng chánh. Cho nên người xuất gia, tôi xuất gia, do Đại sư Chương Gia khuyên tôi, mong tôi xuất gia, lúc đó, tôi một mình ở Đài Loan, không có vướng bận, không có lo lắng. Bảo tôi học đức Thích Ca Mâu Ni Phật, bảo tôi đọc sách Thích Ca Phương Chí và Thích Ca Phổ, sau khi đọc xong thì đã làm rõ ràng, Phật là làm giáo dục. Cho nên chúng tôi nhận thức rõ ràng Phật giáo không phải tôn giáo, mà Phật giáo là giáo dục, là giáo dục của đức Phật. Cho nên một đời của tôi, vào trước khi chưa xuất gia, tôi đã đề xướng giáo dục Phật-Đà, bởi vì bây giờ mọi người hiểu sai rồi, cho rằng đó là tôn giáo, [nên cần] thêm vào hai chữ, thành Giáo dục Phật-Đà. Cho nên năm xưa, tôi giảng kinh 20 năm mới có một đạo tràng nhỏ, là Thư viện Hoa Tạng, lúc đó tôi giảng Kinh Hoa Nghiêm, là Thế giới Hoa Tạng của Kinh Hoa Nghiêm, nên [đặt tên] là Thư viện Hoa Tạng. Chỗ chúng tôi cũng đã mở một quỹ ngân sách, cũng là mấy năm đó, quỹ ngân sách của chúng tôi gọi là Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội, hiện nay vẫn còn, chuyên môn in kinh, in tượng Phật, gửi đi toàn thế giới, không làm điều khác, là học Đại sư Ấn Quang. Nên chúng tôi không phát triển đạo tràng, chúng tôi không lôi kéo tín đồ, mỗi ngày chúng tôi giảng kinh dạy học, làm không biết mệt. Hơn 20 năm trước, chúng tôi bắt đầu dùng Internet, còn 13 năm trước chúng tôi dùng vệ tinh, điều đó sanh ra hiệu quả rất lớn.

          Cho nên chúng ta phải nhớ kỹ, đức Phật là cả đời giảng kinh dạy học, học trò của ngài cũng là cả đời giảng kinh dạy học. Sau khi đức Phật diệt độ, học trò phân bố ở bốn phương, khắp nơi đều là giảng kinh dạy học, phải biết điều này. Pháp vận của Phật, có Chánh pháp, Chánh pháp chính là giảng kinh dạy học, có giảng kinh, có nghe kinh, có chân thật tu hành, có chứng quả, đó gọi là thời kỳ Chánh pháp, tín giải hành chứng: đầy đủ tất cả, là Chánh pháp, thời kỳ Tượng pháp, thì không có chứng quả nữa, có giảng kinh, có nghe kinh, có tu hành, nhưng không có chứng quả. Mà vãng sanh của Tịnh Độ tông chính là chứng quả, cho nên Tịnh Độ tông chính là Chánh pháp. Còn thời kỳ Mạt pháp, là có giảng kinh, có nghe kinh, nhưng không có tu hành, không có làm theo nữa, đương nhiên không có chứng quả, đó gọi là Mạt pháp. Không có giảng kinh nữa, thì không có nghe kinh, gọi là thời kỳ Diệt pháp, pháp liền diệt thôi. Hiện nay chúng ta phải cứu Phật pháp. Cứu thế nào? Là giảng kinh. Có giảng kinh, có nghe kinh, có niệm Phật, bất kể họ có vãng sanh hay không. Thì đó là Mạt pháp của Phật giáo. Nếu họ thật sự vãng sanh, thì đó chính là Chánh pháp, phải làm rõ ràng, làm sáng tỏ điều này. Sau đó liền hiểu được, chúng ta sanh ở thời kỳ nào của Phật pháp? Là thời kỳ Chánh pháp, tại sao? Vì ngày nay chúng ta giảng kinh, nghe kinh, y giáo phụng hành, tín nguyện trì danh, cầu sanh Tịnh Độ, thì đây chẳng phải Chánh pháp sao? Họ sống ở Mạt pháp, còn ta ở Chánh pháp, họ sống ở Diệt pháp, còn ta vẫn là sống ở Chánh pháp. Chính chúng ta phải cảm thấy may mắn, cả đời thật có thành tựu, không có đến uổng công. Bây giờ thời gian hết rồi, hôm nay chúng ta học tập đến đây.

(Hết tập 217)

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử cùng chúng sanh

Đều sanh nước Cực Lạc

Sớm viên thành Phật đạo.

Rộng độ khắp chúng sanh.

Nam Mô A Mi Đà Phật.