SA-DI THẬP GIỚI OAI
NGHI LỤC YẾU
TẬP: 2
Nguyên bản:
Ngẫu Ích Sa môn Trí Húc, y theo Luật Tạng biên tập.
Người giảng: Pháp Sư Định Hoằng.
Giảng tại: Chùa Viên Minh, Hương Cảng.
Thời
gian: Ngày 16 tháng 8 năm 2012.
Dịch giả:
Thích Thiện Trang.
Địa chỉ
email: [email protected]
Kênh
YouTube: Thiện Trang Văn Trang
Kính chào quý vị Pháp sư, quý vị đồng tu, chúc mọi người tốt lành!
Chúng ta tiếp tục học tập Sa-di Thập Giới Oai Nghi Lục Yếu. Vừa đã nói đơn giản,
rõ ràng cho mọi người rồi. Vì sao chúng ta cần phải học tập Sa-di Luật Nghi, và
nên học tập như thế nào. Bây giờ, chúng tôi chính thức khai giảng theo bộ tài
liệu của Đại sư Ngẫu Ích, mọi người đều có bộ tài liệu trên tay. Bộ tài liệu
này là sách Giới pháp Sa-di có thể nói là bản rất hoàn thiện, đây không phải
tôi nói mà Luật sư Hoằng Nhất nói. Ngài nói “Giảng
giải Luật Sa-di cho người sơ học nên sử dụng sách này”. Tức là sách Sa Di
Thập Giới Oai Nghi Lục Yếu do Đại sư Ngẫu Ích biên soạn, Ngài nói đây là bản
chú thích Giới pháp Sa-di hoàn thiện nhất. Vì vậy, chúng ta lựa chọn tài liệu
này.
Thông thường, học Sa-di Luật Nghi đều dùng bản thời triều
Minh của Đại sư Liên Trì là Sa Di Luật Nghi Yếu Lược, Ngài Luật sư Hoằng Tán
vào triều Thanh có một bản chú giải rất chi tiết gọi là Tăng Chú, bộ tài liệu
đó được lưu thông rất rộng rãi. Nhưng Đại sư Hoằng Nhất trong luật học Vấn Đáp
Thập Chương, có đề xuất rằng: “Đại sư
Liên Trì là Đại đức của Tịnh độ tông, Ngài là tổ thứ 8 của Liên tông, Đại sư Ngẫu
Ích là tổ thứ 9, Đại sư Liên Trì tuy về phương diện Tịnh độ rất chuyên sâu,
nhưng về Luật học thì Ngài không chuyên sâu bằng, do đó trong khi biên soạn Sa-di
Luật Nghi Yếu Lược, có rất nhiều chỗ là Ngài lấy ý của mình để phán xét mà
không hoàn toàn y chiếu theo văn Kinh của Luật tạng”. Đương nhiên Ngài làm
điều đó không có vấn đề, vì Đại sư Liên Trì đa số học tập nguyên văn Kinh của
Luật tạng, Ngài thêm và chỉnh lí cho phù hợp, một vấn đề nhỏ đều không có.
Nhưng đối với nhiều vấn đề thuộc về phương diện khai già trì phạm thì không có
nói rõ ràng, chi tiết.
Đại sư Ngẫu Ích trong Chú sớ của Ngài có đề cập rằng “Đại sư Liên Trì chuyên hoằng Tịnh độ, nhưng
đối với Luật học thì sảo sơ”, sơ là gần với khai thông, tức là không thực
thâm sâu, chưa đạt đến thâm sâu. Tuy nhiên Đại sư Ngẫu Ích đối với Ngài Đại sư
Liên Trì rất kính phục, Ngài là học theo Đại sư Liên Trì, chưa có gặp mặt Đại
sư Liên Trì, nhưng Ngài đọc những tác phẩm của Đại sư Liên Trì, học tập theo Đại
sư Liên Trì, làm đệ tử Tư thục của Đại sư Liên Trì. Sau khi Ngài Đại sư Liên
Trì đã vãng sanh, đệ tử Cổ Đức của Ngài là thân giáo sư của Đại sư Ngẫu Ích, do
đó Ngài cũng thuộc về đệ tử tái truyền của Đại sư Liên Trì. Đương nhiên Đại sư
Ngẫu Ích không chỉ rất tôn trọng đối với Đại sư Liên Trì mà còn cực kỳ tôn kính,
nhưng không có một chút tình chấp. Đây là điều rất đáng quý trọng của các vị cổ
Đại đức, không phải nói đó là Sư phụ của tôi, thì khẳng định Ngài là thập toàn
thập mỹ. Không có chuyện như vậy.
Trên phương diện giới luật, Đại sư Liên Trì xác thật nghiên
cứu không chuyên sâu bằng Đại sư Ngẫu Ích, lời Ngài Đại sư Ngẫu Ích nói là chân
thật. Nếu không, vì sao Ngài lấy Sa Di Luật Nghi Yếu Lược của Đại sư Liên Trì
làm cơ sở, còn y theo Luật tạng để trùng tân biên tập thành Sa Di Thập Giới Oai
Nghi Lục Yếu nữa? Đương nhiên là bản sau đã được nâng lên một bậc, gọi là sau
thì hơn trước. Trong lời nói đầu của Sa-di Thập Giới Oai Nghi Lục Yếu, Đại sư
Ngẫu Ích cũng đề ra rằng, “Trong Sa Di Luật
Nghi Yếu Lược của Đại sư Liên Trì có phần hơi châm chước, vì phù hợp với thời
cơ”, tức là để thuận lợi tiếp dẫn những người mới học, “Nhưng các pháp khai già nặng nhẹ sám hối thì
còn chưa rõ ràng”. Tức là không có nói rõ ràng, giới luật đều có khai già
trì phạm, có những tội có thể sám hối, có những tội không cho sám hối, những điều
này đều không có nói rõ ràng. Do đó, Đại sư Ngẫu Ích bất đắc dĩ, lại làm biên tập
một lần nữa. Đương nhiên, làm càng được hoàn thiện hơn. Bởi vậy, chúng tôi giảng
Sa Di Luật Nghi, thì chọn dùng bộ tài liệu của Đại sư Ngẫu Ích, đó cũng là điều
mà Đại sư Hoằng Nhất đặc biệt khuyến nghị.
Trước tiên chúng tôi giảng đề Kinh, tuy sách này vốn không
phải là Kinh, từ đầu đến cuối không phải do chính miệng Phật nói, mà đây là do
Đại sư Ngẫu Ích hội tập. Đây là một bộ sách hội tập, mỗi một câu đều có xuất xứ
từ nguyên văn Kinh. Do đó, sách này cũng như là Kinh điển, đây là bản hội tập.
Vì vậy, có những người phản đối bản hội tập Kinh Vô Lượng Thọ, là hoàn toàn
không có đạo lý, Tổ sư Đại đức đều làm bản hội tập, bộ Sa Di Luật Nghi Yếu Lược
của Đại sư Liên Trì là bản hội tập, bộ Sa Di Thập Giới Oai Nghi Lục Yếu của Đại
sư Ngẫu Ích cũng là bản hội tập. Chúng ta học tập những bộ tài liệu này, thì phải
xem đó là Kinh điển mà học tập. Đầu tiên, chiếu theo quy củ của giảng Kinh,
chúng tôi trước giới thiệu đề Kinh tức là Danh đề, sau đó giới thiệu Nhân đề, tức
là tác giả đã biên tập bộ sách, sau đó lại tiến vào chánh văn để học tập.
Đề mục của sách là Sa
Di Thập Giới Oai Nghi Lục Yếu. Đầu tiên giảng chữ “Sa-di”, Sa-di là người vừa
mới thế độ xuất gia, vẫn chưa thọ giới Tỳ kheo, chỉ đã thọ qua 10 giới Sa-di,
người như vậy gọi là Sa-di. Sa-di là Phạn ngữ, là dịch âm qua. Phạn ngữ Anh văn
gọi là Sramnera, phiên dịch thành Sa-di,
âm đọc rất gần giống, ý chỉ cho người xuất gia chưa thọ giới Cụ túc.
Sa-di chia làm 3 bậc, tức là 3 loại hình, căn cứ theo năm
tuổi để chia. Thứ nhất, từ 7 đến 13 tuổi, đây là căn cứ theo hư tuổi (tức tuổi
ta) mà nói, nếu chúng ta nói theo tuổi thật (tức tuổi tây) hiện nay là 6 đến 12
tuổi. Bởi vì chúng tôi thấy trong đây có vị xuất gia ngắn hạn, nhỏ nhất là 6 tuổi,
hư tuổi là 7 tuổi, vừa đúng thuộc về một loại Sa-di, bậc Sa-di này gọi là Khu ô
Sa-di, khu là xua đuổi, ô là con quạ. Ý nghĩa như thế nào? Xuất gia rồi, thời
gian đầu trong chùa cần phải tu phước, tức là làm việc, nhưng nhiều công việc nặng
các chú bé này đều không làm được, thì phải làm sao? Tăng đoàn không có thể để
cho những người chỉ ăn cơm, không làm mà chỉ ăn thôi là hưởng phước, hưởng phước
thì hết phước. Tùy tiện ăn cơm của Tăng đoàn, thì phước báo sẽ tiêu mà không
sinh ra. Bởi vậy, cần phải cho họ làm việc chút ít, thay thường trụ phục vụ, có
thể thay thế thường trụ phục vụ là tu phước báo lớn. Vừa mới xuất gia thì rất cần
tu phước, có phước thì quý vị tu hành mới có thể thuận lợi, ít gặp chướng ngại.
Những bạn nhỏ này sai vào bếp xào rau thì họ không làm được, cũng không sai họ làm
quản lý phòng kho được, vậy làm được công việc gì? Nên để các bạn nhỏ đến sân
phơi lúa gạo, vân vân mà đuổi quạ hay những loài chim. Đạo tràng vào thời cổ,
đa số đều phải tự canh tác trồng trọt, sau đó thu hoạch để tự cung tự túc, những
thứ thu hoạch như lúa gạo cần phải phơi khô, có khi quạ đến ăn, những bạn nhỏ
chuyên đi đuổi quạ cũng là vì thường trụ phục vụ, đây là bậc Khu ô Sa-di.
Từ những điều trên, chúng ta có thể hiểu nên cần phải phát
tâm vì thường trụ mà làm việc, xuất gia tu hành đầu tiên phải cống hiến, không
phải là đến để hưởng thụ. Cho nên, những đồng tu chúng ta, có vị xuất gia ngắn
hạn, có vị thọ Bát quan trai giới, tôi và những đồng tu công quả tình nguyện đều
đề xuất tốt nhất để mỗi quý vị đều tham gia lao động, đó là giúp mọi người
không tiêu mất phước báo. Quý vị đến đây là tu phước, không phải đến để tiêu
phước, mọi người thấy có công việc, thì cần phải cố gắng nỗ lực làm nhiều.
Trong báo cáo ngày hôm qua, chúng tôi thấy có hai cháu nhỏ, một là mười mấy tuổi,
vị khác đại khái chưa đến 10 tuổi, các cháu phụ trách rửa bát, lấy những cái
bát của mọi người ăn đem rửa sạch, làm khô và cho lại vào thùng. Công việc này
đối với các cháu rất là nặng nhọc, rất đáng được tán thán. Đó là giảng bậc Sa-di
thứ nhất.
Bậc Sa-di thứ hai là tuổi từ 14 đến 19, đều dựa vào hư tuổi,
gọi là Ứng pháp Sa-di. Đây là lứa tuổi rất tốt rồi, họ có những suy nghĩ hiểu
biết của người bình thường, cũng chính chắn hơn, có khả năng học tập rồi. Đây
cũng là khoảng thời gian cần phải bồi dưỡng họ thật tốt. Cho nên, họ có thể tiếp
tục vì thường trụ đạo tràng phục vụ, làm việc, đồng thời cần phải bắt đầu tu tập
thiền tụng. Thiền là thiền định, đó là thời công khóa. Tụng là những thời khóa
tụng Kinh, họ cần phải thuộc lòng, như 5 thời công khóa, họ cần phải tranh thủ
học cho thuộc lòng. Ở tuổi nhỏ, việc học thuộc lòng rất dễ dàng, như tôi nghe
nói trong chúng ta đây có một cháu khoảng 6, 7 tuổi đã có thể thuộc lòng Kinh
Vô Lượng Thọ. Tuổi trẻ thì học thuộc lòng rất dễ dàng, qua đến 40 tuổi thì khả
năng nhớ giảm đi nên rất khó học thuộc. Do đó, khoảng mười mấy tuổi thì học thuộc
lòng tốt nhất. Theo cách giáo dục trẻ nhỏ thời xưa của Trung Hoa thì rất phù hợp.
Trung Hoa giáo dục trẻ nhỏ từ Tiểu học lên đến Thái học,
Thái học chính là Đại học, không có Trung học. Tiểu học là 7 năm đầu tiên học
quy củ khuôn phép, và học thuộc lòng sách. Đó là nền tảng, những sách như Tứ
Thư đều phải học thuộc lòng, Đệ Tử Quy ắt phải làm được. Từ 7 đến 13 tuổi, thì
học thuộc được rất nhiều Kinh điển, Kinh, Sử, Tử đều được trích ra, do vị thầy
trích ra để cho học trò học thuộc, đến 13 tuổi thì cơ bản đều đã thuộc hết. Sau
13 tuổi thì thầy giáo bắt đầu giảng giải cho họ, bởi vậy họ đã học thuộc hết rồi,
tất cả đều nằm lòng, thầy giáo giảng giải cho họ, thầy giáo cũng thuộc nhuần
nhuyễn. Giảng giải như thế nào? Là rất sống động hoạt bát, thầy cùng trò du sơn
ngoạn thủy, đệ tử thì mang theo đồ ăn thức uống, đi theo thầy. Cho nên “Có gì ngon, dâng thầy trước”, để thầy ăn
trước, phụng sự Sư trưởng. Đi đến đâu thì giảng cho học sinh đến đó. Nên rất
nhiều Di tích thắng cảnh đều có rất nhiều đạo lý, liên quan đến các bộ phận điển
tích, Kinh, Sử, Tử, thầy giáo rút ra để giảng dạy. Bởi vì học sinh đều đã thuộc
lòng, nên thầy giáo giảng trong sách ở trang nào, hàng nào, thì học sinh đều biết
được, thầy giáo và học sinh đều không mang theo sách, rất là tự tại. Thời gian
này, giảng cho họ thì họ có thể thông đạt, có thể giác ngộ, khai ngộ. Học Kinh
Phật cũng như vậy, từ Ứng pháp Sa-di trở đi thì cần phải nỗ lực thuộc lòng Kinh
điển, Kinh điển Phật pháp rất nhiều, nếu như có khả năng, thí dụ như có thể học
thuộc được Kinh Hoa Nghiêm, thì tương lai có thể truyền học Hoa Nghiêm. Thuộc
lòng chắc Kinh Pháp Hoa thì tương lai truyền tông Pháp Hoa. Những nền tảng đó
làm tốt rồi, tuổi nhỏ rèn luyện tốt, thì đến lúc trưởng thành học chuyên một
môn đều có thể khai ngộ.
Bậc thứ 3 của Sa-di là từ 20 tuổi đến 70 tuổi, gọi là Danh
tự Sa-di, đây là đã qua lứa tuổi học pháp tốt nhất, nhưng chưa phải là muộn.
Tròn 20 tuổi, theo đúng giới luật của Phật, thì đã có thể thọ giới cụ túc, tức
là giới Tỳ kheo, đủ để thành Đại tăng, Sa-di là Tiểu tăng. Đại tăng là đã thọ
giới Tỳ Kheo. Căn cứ Luật Tứ Phần thì chúng nam là Tỳ kheo có 250 điều giới luật,
chúng nữ là Tỳ kheo ni có 348 điều giới luật, họ cần phải thọ và học các giới
đó, cần phải học thuộc nhuyễn các điều giới, đều phải làm được. Những người đó
thật sự là nhân tài ưu tú của Phật pháp, đều là xây dựng tốt nền tảng từ nhỏ. Vì
sau 20 tuổi đáng lẽ thọ giới cụ túc, nhưng vừa mới xuất gia, thì cần phải thọ
10 giới Sa-di, học giới Sa-di, sau đó trước học giới Tỳ kheo, tương lai khi có
nhân duyên lại thọ giới Tỳ kheo. Vì vậy, 20 tuổi thật sự là đã trải quan lứa tuổi
làm Sa-di rồi. Cho nên, tôi nghĩ đến chính mình thì rất hổ thẹn, tôi 39 tuổi mới
xuất gia làm Sa-di, đợi đến tương lai thọ giới Tỳ kheo, mới có thể thật sự
thành Tăng nhân, thuộc về dòng Tăng. Bởi vì Sa-di vẫn chưa thuộc về dòng Tăng.
Vừa rồi giảng 3 bậc Sa-di, thứ nhất là Khu ô Sa-di, thứ hai
là Ứng pháp Sa-di, thứ ba là Danh tự Sa-di, đều có tên riêng, nhưng thật ra là
không thật riêng. Còn có kiểu phân bậc khác, một gọi là Hình đồng Sa-di, một gọi
là Pháp đồng Sa-di. Hình đồng Sa-di là đã thế phát trên người mặc trang phục xuất
gia, với hình thức như vậy, giống như Sa-di, nhưng chưa có thọ 10 giới, tức là
chỉ có hình tướng, không có thật chất, chưa có pháp, họ thật là chưa thuộc về Sa-di,
nên gọi là Hình đồng Sa-di. Pháp đồng Sa-di là đã thọ 10 giới rồi, nên gọi là
Pháp đồng. Như quý vị có tướng hảo người xuất gia trong kỳ xuất gia này, hôm
qua đều đã cạo tóc, mặc lên y phục Tăng, nhưng cho đến sáng nay chưa thọ 10 giới,
thì quý vị là Hình đồng Sa-di, từ lúc thọ 10 giới trở về sau, được gọi là Pháp
đồng Sa-di. Còn những vị chuẩn bị xuất gia lâu dài, có 19 người, hiện nay đã cạo
tóc rồi đều là Hình đồng Sa-di. Thật ra còn một tầng nghĩa sâu nữa, chúng ta dù
đã thọ 10 giới Sa-di rồi, nhưng có thể chỉ là Hình đồng Sa-di, tại sao vậy? Quý
vị không làm được 10 giới Sa-di, nên chỉ là hữu danh vô thực, chỉ là hình tướng,
không có thật chất. Do đó, quý vị thật sự đắc giới mới được gọi là Pháp đồng, ở
trên Pháp giống Sa-di, đây là xứng đáng với danh hiệu của Sa-di. Xuất gia có 5
chúng, gồm: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Sa-di, Sa-di ni, và chúng nữ đã thọ giới Sa-di
rồi, trong hai năm còn phải học nữ pháp, gọi là Thức xoa ma ni, sau khi thọ giới
Thức xoa ma ni, còn phải trải qua hai năm mới có thể thọ giới Tỳ kheo ni. Đó là
tổng cộng có 5, gọi là Ngũ chúng xuất gia, đây đều là thường thức Phật học. Đó
là giới thiệu đơn giản về Sa-di.
Thứ hai, giới thiệu Thập giới, 10 giới mọi người xem mục lục
sách đều rất rõ ràng. Trong bộ sách chúng ta cầm có hai phần, phần một là Thập
giới môn, phần hai là Oai nghi môn. 10 giới là: không sát sanh; không trộm cướp;
không dâm dục; không vọng ngữ; không uống rượu; không mang trang hoa thơm, bôi
hương lên thân; không được ca múa trổi nhạc và đi xem nghe; không ngồi giường cao
rộng lớn; không ăn phi thời; không giữ vàng bạc vật báu. Đó là 10 giới. Bát
quan Trai giới thì gồm 9 điều đầu tiên giống như vừa rồi. Đó là Thập giới môn.
Oai nghi môn là phần thứ hai, đây không thuộc về giới mà thuộc về oai nghi, là
quy cách từng lời nói hành động của chúng ta, gồm có 26 tiêu đề nhỏ, trên thực
tế là 24 oai nghi. Từ 1 đến 24 đều thuộc về oai nghi, rất tỉ mỉ, gồm kính bậc
thầy lớn như thế nào, thờ phụng thầy ra làm sao, theo thầy đi ra ngoài thế nào,
vào trong chúng làm sao, bao gồm ăn uống làm sao, lễ lạy thế nào, nghe pháp làm
sao, học tập Kinh điển thế nào, đi vệ sinh làm sao, tắm rửa thế nào, đều có dạy
quý vị. Cho nên, đó là giáo dục sinh hoạt đời sống, khá giống với giáo Lễ của
Trung Hoa thời cổ. Nhà Nho chú trọng Lễ, Nhà Phật thì chú trọng Giới, không có
Lễ thì không có Nho, không có Giới thì không có Phật. Muốn thật sự có Phật pháp
thì ắt phải có người giữ giới, có người giữ quy củ. Từ 1 thẳng đến 24 đều thuộc
về oai nghi, thọ cụ già nạn cũng thuộc về giới luật. 25, 26 là thuộc về thường
thức, không thuộc về oai nghi, đó là kiến thức quý vị cần phải hiểu biết. Cho
nên, thực tế chỉ nói 24 môn. Rất là giống với 24 môn oai nghi nói trong Sa Di
Luật Nghi Yếu Lược của Đại sư Liên Trì, đó là Thập giới Oai nghi.
Phần sau “Lục Yếu”. Hai chữ này của đề kinh rất rõ ràng,
theo y Luật Tạng tiết lục ra, biên tập lại, mỗi một câu đều là tinh yếu, bỏ đi
các phần trùng lặp phức tạp, lấy phần quan trọng tinh yếu. Bởi vì nếu để nguyên
thì rất nhiều phức tạp, chúng ta rất khó thuộc được, không tiện để thọ trì. Cho
nên, Đại sư Ngẫu Ích rất là khổ tâm, đành phải kỹ càng tỉ mỉ chọn trích ra từ
nguyên văn Kinh giới luật, làm vì để những người xuất gia chúng ta tu hành. Đây
là những tinh yếu của giới luật và oai nghi. Đề Kinh giới thiệu đến đây thôi.
Tiếp theo sẽ giới thiệu với mọi người Nhân đề, tức là tác
giả biên soạn của bộ sách, là Đại sư Ngẫu Ích, tôi muốn dành nhiều thời gian để
nói về cuộc đời của Ngài. Vì sao vậy? Ngài là người mà tôi rất kính ngưỡng, một
vì đây là vị Đại đức của Tịnh tông, tôi cung kính Ngài không phải vì tôi cùng họ
với Ngài là họ Chung, mà vì đức hạnh của Ngài, phẩm hạnh Ngài thật sự khiến tôi
vô cùng kính trọng. Đương nhiên, họ thế tục của Ngài là Chung, cùng dòng họ với
tôi, đó là một chút nhân duyên, cũng là đặc biệt thân thiết. Hai vì Đại sư Ngẫu
Ích là Tổ thứ 9 của Tịnh độ tông. Chắc chúng ta đã đọc qua Kinh A Di Đà, Ngài
đã chú giải Kinh A Di Đà gọi là Yếu Giải, được Đại sư Ấn Quang vô cùng tán thán
rằng, dù cho Cổ Phật tái lai chú giải cho Kinh A Di Đà, cũng không qua được Yếu
Giải của Đại sư Ngẫu Ích. Hay nói cách khác, cảnh giới của Đại sư Ngẫu Ích hoàn
toàn chính là cảnh giới của Phật. Chúng ta có thể tin tưởng khả năng Đại sư Ngẫu
Ích chính là A Di Đà Phật tái lai. Tuy thời đó thân phận của Ngài không bộc lộ,
không biết thân phận thật sự của Ngài, nhưng từ khen ngợi của Đại sư Ấn Quang,
chúng ta có thể tin tưởng. Đại sư Ấn Quang là Tổ thứ 13 của Tịnh độ tông, là vị
Tổ gần nhất với chúng ta. Tương truyền Đại sư Ấn Quang là Đại Thế Chí Bồ Tát ở
Thế Giới Tây Phương Cực Lạc tái lai, Đại
Thế Chí Bồ Tát là phụ tá của A Di Đà Phật. Ngài đã khen ngợi chú giải Kinh A Di
Đà của Đại sư Ngẫu Ích là Cổ Phật tái lai để chú giải cũng không hơn được. Quý
vị nghĩ xem, tôi nghĩ Đại sư Ngẫu Ích không ngoài A Di Đà Phật thì có khả năng
là Quán Thế Âm Bồ Tát. Cho nên, chúng ta đặc biệt lưu ý các tác phẩm của Đại sư
Ngẫu Ích.
Đại sư Ngẫu Ích ra đời năm 1599, cách chúng ta hiện nay khoảng
hơn 400 năm, Ngài sống vào cuối thời Triều Nhà Minh, đầu thời Triều Nhà Thanh,
sinh ra thời Triều Minh, viên tịch vào thời Triều Thanh. Họ là Chung, tên là Tế
Minh, là người tỉnh Giang Tô, lúc đầu Ngài là người ở Biện Lương, sau đó di cư
đến Giang Tô là vùng đất Ngô xưa (thời Tam Quốc). Lúc cha mẹ của Ngài cầu con trai, cha Ngài trì
Chú Đại Bi 10 năm thì mộng thấy Quan Âm Đại sĩ đưa cho ông một đứa con trai,
sau đó sanh ra chính là Đại sư Ngẫu Ích. Khi Ngài sanh ra thì cha mẹ Ngài đều
đã hơn 40 tuổi rồi, trung niên mới có con trai, cha Ngài qua đời sớm, mẹ Ngài
và Ngài có duyên khá dài. Đại sư Ngẫu Ích thật sự là một thiên tài, 12 tuổi
Ngài đã thông Nho. Ngài có chí hướng đặc biệt, từ nhỏ đã tự mình gắng sức học đạo
của Thánh Hiền, tự có trách nhiệm nối dòng mạch đạo thiên cổ, Ngài đã phát nguyện
tiếp nối mạch đạo của Cổ Thánh Tiên Hiền, vì vãng Thánh kế tuyệt học, vì vạn thế
khai thái bình. Lúc 12 tuổi, hư tuổi là 12, hiện nay chúng ta nói là 11 tuổi,
Ngài đã có chí hướng như vậy. Bởi vì học Nho, nên Ngài đặc biệt ưa thích xem
Trình Chu lí học, chịu ảnh hưởng của Chu Hi Chu Phu Tử rất sâu. Từ đầu Cha Mẹ
Ngài đều tin Phật nên Ngài đã ăn chay từ nhỏ, ăn chay từ trong bụng mẹ. Nhưng đến
năm 12 tuổi thì Ngài lại bắt đầu ăn mặn, Ngài thấy rằng Phật pháp không hay bằng
Nho gia. Sau khi Ngài học Nho thì hủy báng Phật pháp, năm 12 tuổi Ngài đã viết
hàng chục loại sách bài luận bài bác Phật, văn chương chuyên môn hủy báng Phật
pháp, dẫn lý tranh luận. Ngài tỏ ra ngang tàng, nói chung là người muốn công
kích Phật pháp, những văn chương Ngài viết ra hay không dễ gì làm được, 12 tuổi
Ngài đã có thể viết ra hàng chục loại sách. Lúc đó, Ngài thường nằm mơ thấy gặp
Khổng Tử, gặp Nhan Hồi, cùng đối thoại với nhau, là cảm ứng thật nhiều.
Sau đó đến năm 17 tuổi, Ngài đọc được hai tác phẩm Tự Tri Lục
và Trúc Song Tùy Bút đều do Đại sư Liên Trì trước tác, tự biết việc báng Phật của
mình là sai lầm, chính mình đã tạo tội nghiệp. Cho nên, ngay tức khắc giác ngộ,
liền đem mấy chục sách, văn chương hủy báng Phật pháp trước kia toàn bộ đốt hết.
Chúng tôi tin tưởng đây đều là Phật Bồ tát làm thị hiện. Đến khi 20 tuổi, chú ý
trong đây đều nói là hư tuổi (tức tuổi ta). 20 tuổi, Ngài đọc Luận Ngữ, đọc
chương Nhan Uyên Vấn Nhân. Đây là những sách mà quá khứ tôi đã từng giảng giải một
lần từ đầu đến cuối rất tỉ mỉ, như Luận Ngữ đây là, chương thứ nhất của thiên
thứ 12 là Nhan Uyên Vấn Nhân. Khổng Tử nói với Nhan Uyên, “Khắc chế lấy mình trở
về lễ thì là nhân”, quý vị có thể khắc chế hàng phục được phiền não tập khí của
chính mình, có thể kiểm soát mọi hành vi ngôn ngữ, việc làm đều phù hợp với lễ,
nhà Phật nói là phù hợp với giới, đó là hàng phục được phiền não của chính
mình, đó chính là nhân. Do đó, nhân là cảnh giới của Thánh Hiền. Khổng tử nói:
“Một ngày khắc chế mình, trở lại lễ thì
thiên hạ sẽ trở về nhân, vì nhân do mình, chứ do người ư?”. Vì nhân thì phải
hành đạo làm người, hành đạo của Thánh Hiền, toàn là việc của chính mình, không
liên quan gì đến người khác. Không cần phải yêu cầu người khác, chủ yếu là tự cầu
chính mình, khắc chế mình trở về lễ thì thiên hạ đều có thể trở về nhân. Kết quả,
Đại sư Ngẫu Ích lúc tham cứu câu này, Ngài đọc Luận Ngữ thì thật sự là dụng
công, đọc không hiểu, không thấu ngộ, nên quên ăn bỏ ngủ trong tham cứu, liên tục
3 ngày đêm không ăn cơm, không ngủ, để tâm suy nghĩ, khảo cứu vì sao mà một ngày
khắc chế mình, trở lại lễ thì thiên hạ sẽ trở về nhân? Sau đó hoát nhiên đại ngộ,
đốn ngộ được tâm học của Khổng Tử, tâm học của Nhan Hồi, Đại sư Ngẫu Ích đã đốn
ngộ.
Trên thực tế, sau khi học Phật, có tu dưỡng Phật pháp, thì
đối với Nhà Nho, quý vị có thể thật sự hiểu được càng rõ ràng sâu sắc. Phật
pháp nói với chúng ta, Biến pháp giới hư không giới do tâm ta mà hiện, do đó ta
có thể quay trở về nhân, thì vũ trụ liền quay về nhân, đương nhiên thiên hạ
cũng quay về nhân, vì nhân do mình, vì nhân do nhất tâm của chính mình, nên tâm
quý vị quy nhân, cảnh giới thay đổi, thì toàn bộ vũ trụ cũng thay đổi quay về
nhân. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tình dữ vô
tình, đồng viên chủng trí”, khi chính quý vị đầy đủ tất cả chủng trí, tức
là thành Phật rồi, thì tất cả chúng sanh hữu tình, vô tình cũng thành Phật theo
quý vị. Quý vị thành Phật rồi, thì thiên hạ vũ trụ toàn bộ chúng sanh đều đồng
thành Phật đạo, đó không phải là thiên hạ đều quy nhân sao? Đó là tâm pháp, tất
cả đều do tâm. Đại sư Ngẫu Ích lúc trước đó chưa có tu dưỡng thâm sâu Phật
pháp, mà có thể ngộ đạo lý đến thế, thật đáng quý khó được, không phải là người
thường. Sau khi Phụ thân Ngài qua đời, Ngài nghe được Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện,
thì phát tâm xuất thế, tức là phát tâm xuất gia. Sau đó Ngài tự mình chiêm quẻ
xem tuổi thọ của mẹ Ngài, Đại sư Ngẫu Ích là một người con đại hiếu. Hỏi tuổi
thọ của mẹ Ngài, nói đại khái là 62, ba lần đều gieo được như vậy. Sau đó Ngài
liền đối trước Phật phát đại nguyện, nguyện giảm tuổi thọ của mình, lấy giảm
công danh phước báo, giảm tuổi thọ của mình cho mẹ Ngài tăng thêm tuổi thọ, thật
là người con hiếu.
Đến năm 23 tuổi, Ngài phát 48 đại nguyện. Tôi đã xem 48 đại
nguyện này rất giống với 48 đại nguyện của A Di Đà Phật, 23 tuổi thì đã có thể
phát ra được đại nguyện. Tôi tin nhất định Ngài là A Di Đà Phật tái lai. Năm 24
tuổi, Ngài mộng thấy Đại sư Hám Sơn, người mà Ngài kính ngưỡng nhất, Đại sư Hám
Sơn là Đại đức khai ngộ trong Thiền tông. Ngài mộng thấy Đại sư Hám Sơn nói, tiếc
rằng gặp nhau quá trễ. Ngài mong gặp Đại sư Hám Sơn, thì làm sao không thấy được.
Giống như rất nhiều đồng tu chúng ta, mong ước được gặp Lão Hòa thượng Tịnh
Không, vì rất khó gặp mặt Ngài được một lần. Lúc đó, tâm tình của Đại sư Ngẫu
Ích cũng như vậy, thì trong mộng gặp được, liền khóc vì tiếc rằng gặp nhau quá
trễ. Đại sư Hám Sơn nói rằng đó là quả khổ, con không gặp ta đó là quả khổ, tại
sao con không gặp ta, cần phải biết đó là nhân khổ tại đâu. Quý vị thấy nói
Ngài hiểu rõ nhân quả. Ở trong mộng Đại sư Ngẫu Ích trả lời như thế nào? Ngài
nói, đệ tử chí cầu thượng thừa, không nguyện nghe pháp Tứ đế. Tứ đế là giảng
nhân quả, khổ tập diệt đạo, khổ tập là nói về nhân quả khổ thế gian, diệt đạo
là nhân quả vui xuất thế gian, gọi là pháp Tứ đế, Tiểu thừa cần phải tu pháp
này. Nhưng vì Đại sư Ngẫu Ích nói, con chí cầu thượng thừa, con không mong nghe
pháp Tứ đế, đây là căn tánh không vừa. Kết quả, trong mộng Đại sư Hám Sơn nói với
Ngài, Cư sĩ (lúc đó Đại sư Ngẫu Ích vẫn là cư sĩ), con có chí hướng lớn, chí hướng
của con là vô cùng cao thượng. Ngài nói: “Tuy
không như Hoàng Bách, Lâm Tế, song có thể như Nham Đầu, Đức Sơn”, bốn vị đó
đều là Đại đức Thiền tông đã khai ngộ, Hoàng Bách, Lâm Tế rất nổi tiếng, Thiền
tông như cây hoa năm cành, có một nhánh là tông Lâm Tế, đây là dòng Thiền rất
hưng vượng, con cháu của dòng Lâm Tế khắp thiên hạ, đây là thành tựu rất cao. Ngài
nói, tuy con không thể như Thiền sư Hoàng Bách, thiền sư Lâm Tế, tức là thành tựu
không cao như vậy, nhưng con có thể khai ngộ như Ngài Nham Đầu, Ngài Đức Sơn.
Đây đều là cảm ứng của Phật Bồ tát.
Sau đó Ngài đi xuất gia, Ngài tìm Đại sư Hám Sơn để xuất
gia, nhưng vì Đại sư Hám Sơn thật đã đi xa, lúc đó Ngài nương theo môn nhân của
Đại sư Hám Sơn là Pháp sư Tuyết Lĩnh mà thế độ xuất gia. Khi xuất gia thì phát
ba điều nguyện, thứ nhất “Chưa chứng vô
sanh pháp nhẫn, thì không thu nhận đồ chúng”, tức là không thế độ cho người.
Khi nào thì thế độ? Tôi chứng được vô sanh pháp nhẫn, tức là Pháp thân Đại sĩ,
thành Phật rồi, tôi có thể thế độ người, khi chưa thành Phật thì không xuất gia
cho người. Nguyện thứ hai: “Không lên cao
tòa”. Thế nào gọi là cao tòa? Trong mỗi một đạo tràng chùa viện, vị trí của
Hòa thượng, vị trí của Trụ trì gọi là cao tòa, hay nói cách khác Ngài nguyện
không làm Trụ trì, không đảm nhận làm Phương trượng của đạo tràng. Nguyện thứ
ba, “Thà chịu đói lạnh chết, chứ không tụng
kinh lễ sám và hóa duyên để nuôi thân”, tức là thà nguyện chết chứ không đi
hóa duyên, không làm Kinh sám Phật sự cho người để mưu sinh, tuyệt đối không
làm những việc như vậy.
Do đó, xem đến đoạn này, tôi rất cảm động, tôi cũng bắt chước
Ngài, sau khi xuất gia tôi cũng phát 3 nguyện, cũng là chưa chứng vô sanh pháp
nhẫn, thì không thu nhận đồ chúng, tôi không thế độ cho người. Nên hiện nay
nghe có người hậu bối nói với tôi, thỉnh
Pháp sư, Ngài có thể thế độ cho con được không? Tôi trả lời rằng, tôi không thế độ được. Khi nào thế độ được?
Khi nào tôi vãng sanh thành Phật rồi tái lại lại thì tôi sẽ thế độ cho quý vị.
Tôi cũng không truyền giới cho người, do tôi không thể lên Đàn giới làm Hòa thượng,
làm A xà lê, làm Yết ma, tôi không làm những bậc đó. Vì sao vậy? Vì chính tôi
không đắc giới, đây là tôi nói lời thật. Nguyện thứ hai, tôi không làm Phương
trượng, không kinh doanh đạo tràng, tôi chỉ giảng Kinh thuyết pháp, ngoài ra những
việc khác đều không làm. Bởi có người hỏi tôi, thầy có cần nên học Tam Thời Hệ
Niệm để làm Hòa thượng Chủ pháp không? Tôi trả lời là tôi không đủ đức hạnh đó.
Tôi không làm được Hòa thượng Chủ pháp tức cũng là được lên cao tòa. Nguyện thứ
ba là, tôi thà chết lạnh chứ không hóa duyên, chết đói cũng không hóa duyên. Vậy
lỡ ngày nào thật sự không có ăn uống thì phải làm sao? Tin tưởng rằng A Di Đà
Phật sẽ đến tiếp dẫn tôi vãng sanh Thế Giới Tây Phương Cực Lạc. Vì vậy, thỉnh mọi
người chứng giám cho tôi, tôi đã phát nguyện thì nhất định làm được, không làm
được thì là lừa gạt người. Vì vậy, mọi người làm chứng giám cho tôi giữ tốt 3
điều nguyện, một đời tôi không quản người, không quản việc, không quản tiền, chỉ
quản giảng Kinh thuyết Pháp.
Sau khi Ngài xuất gia thì cùng một vị Pháp sư khá lớn tuổi,
không phân biệt tuổi tác, kết giao thành bạn thân. Năm 30 tuổi trở đi, mỗi khi
có người thỉnh Đại sư thế độ cho, Ngài không thế độ cho người, Ngài đều tìm vị
kết giao đó, gọi là Tâm Y Pháp chủ, mời đến để thế độ, trao giới Sa-di, Ngài tự
mình không thế độ cho người. Tôi thấy đây là phương pháp rất tốt, nếu như có cần
người thế độ, thì tôi sẽ giới thiệu cho quý vị theo Lão Hòa thượng Sướng Công,
Ngài thế độ cho quý vị thì tuyệt đối không có vấn đề. Bởi tôi là do Lão Hòa thượng
Tịnh Không giới thiệu tôi theo Sướng Công xuất gia, tôi cũng giới thiệu quý vị xuất
gia theo Sướng Công.
Đại sư Ngẫu Ích năm 24 tuổi xuất gia, liền trong năm đó bắt
đầu học Thiền. Ngài thân cận với Pháp sư Cổ Đức là đệ tử của Đại sư Liên Trì.
Lúc đó, Ngài hướng đến Pháp sư Cổ Đức thỉnh giáo, rằng Phật pháp nói không sợ
niệm khởi, chỉ sợ giác chậm, một niệm đầu khởi thì liền đọa vào vô minh, vì vô
minh sanh Lục đạo luân hồi, sanh tử không ngừng, chỉ cần con giác ngộ được điều
đó, thì Lục đạo liền không còn nữa. Hiện nay xin hỏi, giả sử chúng ta đã trải
qua nhập thai, trong thân uẩn vào thai, thai trong bụng mẹ, trải qua thọ sanh
hoặc là sanh ra rồi, hiện giờ đã được thân thể này, Ngài đã giác ngộ, thì có phải
Lục đạo luân hồi không còn nữa, thân thể này thì cũng có thể giải thoát rồi
chăng, nhưng sao thân thể Ngài vẫn còn giải thoát không được? Đại sư Ngẫu Ích
suy nghĩ không thông vấn đề này, Ngài đem hỏi Pháp sư Cổ Đức, từ nay con lập tức
giác ngộ, vì sao con chưa có thể giải thoát khỏi sự trói buộc của thân thể này?
Đây là câu hỏi không nhỏ, là vấn đề lớn. Pháp sư Cổ Đức là người đã khai ngộ,
Ngài phản hồi cho Đại sư Ngẫu Ích chỉ một câu “Ông nay nhập thai chưa”, ông hiện
giờ có nhập thai chưa? Hỏi Ngài, đều là câu nói cơ phong của Nhà thiền. Ông
nói, ông hiện giờ giác ngộ liền có thể giải thoát rồi, vậy thì giờ ông có nhập
thai không? Lúc đó, Đại sư Ngẫu Ích không đáp lại được. Đại sư Cổ Đức mỉm cười
nói, ông nhập thai rồi. Lúc này, Đại sư Ngẫu Ích toát cả mồ hôi, tham cứu không
thông, Ngài đi đến núi sâu để tọa thiền, để tham cứu vấn đề đó.
Kết quả là đến năm 24 tuổi, tức là tham cứu được một năm,
trong lúc đang tọa thiền, hốt nhiên Ngài đạt đến cảnh giới thân tâm thế giới
toàn bộ đều tiêu mất, không còn nữa, thân thể thế giới, tất cả vũ trụ vạn vật,
bao gồm ý niệm trong tâm cũng không có, Ngài nhập vào cảnh giới đó. Sau đó hốt
nhiên liền khai ngộ, ngộ được nguyên nhân thân thể, thế giới, từ vô thỉ kiếp đến
nay đều là do vọng niệm của chính mình, do niệm niệm tương tục mà sanh thành,
không phải thật có, là giả, hư vọng thôi. Nguyên nhân chính vì niệm niệm của
quý vị tương tự liên tục không ngừng, vì vậy chúng ta mới nhìn thấy Đại thiên
thế giới hình thành, bao gồm cả thân thể, thế giới, tinh thần của chúng ta. Di
Lặc Bồ Tát nói “Trong một khảy móng tay
có 32 ức trăm ngàn niệm, niệm niệm thành hình, hình đều có thức”, Đại sư Ngẫu
Ích ngộ rất giống điều vừa nói. Trong thời gian một khảy móng tay có 320 tỷ ý
niệm, niệm niệm tương tự liên tiếp, mỗi một niệm đều sản sinh vũ trụ, sản sinh
cảnh giới, bởi vì các niệm tương tự liên tiếp, nên vũ trụ cũng là tướng tương tự
liên tiếp, đó là tướng giả, không phải tướng thật. Như chúng ta xem phim điện ảnh,
nguồn gốc là từng tấm hình lần lượt chạy qua liên tục không gián đoạn, chúng ta
xem trên màn bạc liên tục như là cảnh giới, trên thực tế thì từng tấm hình tách
rời nhau. Ý niệm ban đầu của quý vị giống như một tấm hình thứ nhất, những niệm
niệm liên tục giống như các tấm hình liên tục chuyển động phóng ra, xem thấy đó
là phim 3 chiều, vũ trụ vạn vật này, thân thể, và tinh thần, thật ra toàn là do
những vọng niệm sanh ra. Cho nên, khi Đại sư Ngẫu Ích tọa thiền, hốt nhiên
buông xả vọng niệm, thân tâm thế giới toàn bộ đều không còn, liền khai ngộ rồi.
Vì vậy, từ đó Ngài đã thấu tỏ đạo, vấn đề mà Ngài hỏi Pháp
sư Cổ Đức liền tự hiểu rõ, rằng có nhập thai không? Khi quý vị có vọng niệm, tức
là niệm niệm liên tục, quý vị liền có 12 nhân duyên của sanh tử luân hồi. Niệm
đầu tiên nếu như mà dừng lại, đoạn mất rồi thì thân tâm thế giới toàn bộ đều
không có, thì liền xuất thai, từ trong thai mà ra. Cho nên, khi đó Pháp sư Cổ Đức
hỏi: Ông hiện đã nhập thai chưa? Đại sư Ngẫu Ích có thể đáp là: Con không có nhập
thai, con đã ra thai rồi. thì tức là đã khai ngộ. Nên từ đó trở đi toàn bộ Kinh điển bày ra trước mặt thì tất cả
đều thông suốt, không cần phải đi học, không cần phải đi nghe giảng, tự nhiên
thông suốt. Đó là cảnh giới đã đại ngộ. Năm 25 tuổi.
Sau đó Ngài bắt đầu học tập giới luật, Ngài đối trước tượng
của Hòa thượng Liên Trì lạy thọ sách giới Tứ Phần, đó là sách giới Tỳ kheo. Quý
vị thấy trước chưa có thọ giới Tỳ kheo, thì đã bắt đầu học Luật Tứ Phần, Luật Tứ
Phần chính là giới Tỳ kheo. Nhưng mà Ngài lại thọ Bồ tát giới trước, Ngài thọ
giới Bồ tát năm 26 tuổi, thọ giới Bồ tát thì đã là Bồ tát, người ta thật là Bồ
tát vì đã khai ngộ rồi. Song Ngài phát tâm xem Luật tạng, từ sau khi khai ngộ bắt
đầu tụng tạng, xem tạng, vì để kiểm nghiệm sở ngộ của chính mình có thật không.
Chưa có khai ngộ, tốt nhất không cần phải xem tạng, xem tạng quý vị cũng không
hiểu rõ. Lúc đó, Pháp sư Cổ Đức liền hỏi Ngài, thử Ngài, ông thọ giới Bồ tát rồi, đó là tầng bậc cao, sao hiện giờ ông còn mới
chú trọng học Luật? Luật là nền tảng
thấp nhất, do giới mà sanh định, do định mà khai huệ. Ý là: Ông đều đã đắc được
định huệ, ông còn phải học giới sao? Đó là thử Ngài. Đại sư Ngẫu Ích đáp lại rằng:
Như một ngôi nhà có 4 tầng, tầng trên
cùng đã được xây dựng hoàn hảo rồi, thì có thể bỏ đi tầng thứ nhất không? Ý
là: Quý vị không thể nói là xây dựng tầng 4 rồi, xây rất hoàn hảo thì phá bỏ đi
tầng thứ nhất, không thể được. Tầng thứ nhất là nền móng, không thể bỏ đi giới
luật. Pháp sư Cổ Đức lại thử Ngài rằng: Ông
đã lên đến tầng cao nhất, sao còn nhìn xuống dưới? Đây là hỏi được rất hay,
sao ông còn nhìn xuống dưới? Ông cần phải tiếp tục hướng lên, đi lên trên đỉnh,
lên tới đỉnh chính là Phật. Nhưng Đại sư Ngẫu Ích tiến rất chắc thật, tuyệt
không phải là mong cầu cái viễn vông xa vời. Ngài trả lời ra sao? Rằng: “Tuy lên Tha Hóa, vốn không lìa Tịch Tràng”.
Đây là nói trong Kinh Hoa Nghiêm, Thích Ca Mâu Ni Phật lên trời Tha Hóa Tự Tại
giảng pháp, thực tế thân của Ngài không rời đạo tràng, thân không rời đạo tràng
mà đi khắp mười phương, Ngài có thể lên trời Tha Hóa Tự Tại. Ý nghĩa đó rất rõ
ràng, lên đến chỗ cao nhất của Phật pháp, nhưng không rời bỏ nền tảng là tầng
thấp nhất. 10 giới Sa-di là nền tảng của Phật pháp, dù cho bạn thành Phật, cũng
không thể rời bỏ 10 giới Sa-di, không thể bỏ đi Ngũ giới, Thập thiện. Đại sư Ngẫu
Ích từ đó chuyên nghiên cứu Luật tạng, Ngài một mặt vừa học vừa trích lục. Đến
năm 27 tuổi cho ra đời một bộ sách của Ngài tên là Tỳ Ni Sự Nghi Yếu Lược, Tỳ
Ni chính là giới luật, Sự Nghi Yếu Lược là Ngài sao chép ra những phần tinh yếu,
giống như Quần Thư Trị Yếu, sách Quần Thư Trị Yếu là từ Kinh điển, Kinh, Sử, Tử
mà chép ra những phần tinh yếu liên quan đến tu thân, tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ. Bộ sách Tỳ Ni Sự Nghi Yếu Lược của Ngài là trị yếu của Luật tạng,
chuyên môn để trị thân, tu thân.
Đến năm Ngài 28 tuổi, Thân mẫu Ngài bị bệnh nặng. Ngài là
người con hiếu, vì để giúp Mẹ Ngài trị bệnh, Ngài đã 4 lần cắt thịt ở bắp đùi để
làm thuốc, 4 lần cắt thịt bắp đùi để chữa bệnh cho mẹ, điều đặc biệt khó được. Nhưng
cuối cùng thì Mẫu thân Ngài cũng qua đời, Ngài vô cùng đau buồn. Vì để làm công
đức cho mẹ, Ngài tự mình bế quan, đang trong lúc bế quan thì bị bệnh rất nặng,
đều là nghiệp hiện ra. Quý vị thấy đại đa số người tu hành đều có nghiệp chướng
hiện ra, mọi người trong 6 ngày này, quý vị nếu có chút bệnh khổ, đó là rất
bình thường, quý vị hãy cố gắng vượt qua. Đại sư Ngẫu Ích lúc đó lấy công phu
tham Thiền để cầu sanh Tịnh độ, sau đó Ngài hết bệnh, thì tiếp tục học tập Luật
tạng.
Đời Ngài từ 26 tuổi bắt đầu học Luật, Ngài vãng sanh năm 57
tuổi, 32 năm tinh chuyên giới luật, đó là Đại sư Luật học. Thời ấy, có người
xưng Ngài là Luật sư. Nhưng Ngài không chỉ học Luật, mà Ngài còn học Giáo, học
Thiền, Thiền tông thì đại ngộ, Giáo hạ thì chuyên tông Thiên Thai, và sau cùng
Ngài quay về Tịnh độ. Bởi vậy, Ngài đều tinh thông Thiền, Tịnh, Giáo, Luật, đây
là một Đại gia. Có người hỏi Ngài, vì
sao Ngài hoằng dương Luật? Ngài trả lời, hiện tại tập khí phiền não của tôi rất
nặng, bởi vậy cần phải dùng giới luật để thanh tịnh 3 nghiệp thân khẩu ý của
mình, chính tôi tu hành có rất nhiều ô nhiễm. Quý vị thấy đó là bậc đại tu
hành, cần cầu chính mình nghiêm khắc, tu được tốt đến vậy, mà nói chính mình
còn rất nhiều ô nhiễm, đối chiếu giới luật còn nhiều điều chưa làm được, cho
nên thề không là Hòa thượng. Hòa thượng là người trụ trì của đạo tràng, Ngài
không chịu đến vị trí Hòa thượng, chỉ giữ thân phận là học sinh. Ngài đem danh
vượt quá thật của mình thành sự thường hổ thẹn. Thí như nói, quý vị không làm
được Tỳ kheo, quý vị biết rõ mình chỉ là danh Tỳ kheo, đó là sự sỉ nhục của
Ngài. Thông qua học Luật, Ngài mới nắm rõ chính mình đạt đến đâu. Ngài có bài kệ
nói:
“Cử thế bất tri chân,
Ngộ độc bất ái giả”.
Tức mọi người trên thế
giới đều không biết gì là sự thật, chỉ có một mình ta không yêu cái giả, ta yêu
cái thật. Từ trong đó, có thể biết tâm đạo của Đại sư Ngẫu Ích.
Sau đó năm 32 tuổi, Ngài chú giải Kinh Phạm Võng. Kinh Phạm
Võng là Kinh Bồ tát giới, Ngài muốn dùng phương pháp của Giáo hạ để chú giải
Kinh, Ngài muốn hỏi dựa trên phương pháp nào để chú giải? Ngài bèn dùng 4 thẻ
thăm để hỏi Phật, thẻ thăm thứ nhất là Hiền Thủ, tức là tông Hoa Nghiêm, dùng mạch
pháp Kinh Hoa Tạng để chú giải Kinh Phạm Võng; thẻ thăm thứ hai là Thiên Thai,
giáo pháp của Thiên Thai là do Đại sư Trí Giả khai sáng, chuyên của tông này là
Kinh Pháp Hoa; thẻ thăm thứ ba là Từ Ân, Duy thức, tông này là do Đại sư Khuy
Cơ sáng lập, chuyên về Duy thức học; thẻ thăm thứ tư là tự Ngài lập ra một tông
phái. Ngài dùng 4 thẻ thăm đó để hỏi Phật, được thẻ thăm nào thì dùng phương
pháp đó? Kết quả mấy lần chiêm quẻ đều là Thiên Thai. Cho nên từ đó trở đi,
Ngài chuyên tông Thiên Thai, nhưng chính Ngài lại khẳng định mình không phải là
con cháu của tông Thiên Thai. Do đó, Ngài không phải là một Tổ sư truyền mạch của
tông Thiên Thai. Như Sư phụ của Sướng Công chúng ta đây là Lão Hòa thượng Đàm
Hư, là truyền nhân đời thứ 44 của Thiên Thai, Quý vị xem, Đại sư Ngẫu Ích không
có xếp vào trong pháp phái đó, Ngài hoàn toàn là cấp Tổ sư của Thiên Thai,
nhưng Ngài không nhận mình làm con cháu của Thiên Thai. Vì sao vậy? Bởi lúc đó,
giữa các tông phái Phật giáo có rất nhiều tranh luận, không thể viên dung, nên
Đại sư Ngẫu Ích phải thị hiện, ta không theo một tông phái nào, nhưng các phái
ta đều thông, mà lại viên dung các phái, để dạy cho mọi người không có cái nhìn
phân biệt các môn phái, đây là điều Ngài rất khổ tâm. Năm 32 tuổi thì Ngài đã
có cái nhìn như vậy.
Sau đó, Ngài tinh chuyên học Luật. Đến năm 46, 47 tuổi,
Ngài đã trải qua 10 hạ, 10 năm từ khi thọ giới Tỳ kheo. Đương nhiên một hạ, có
tiêu chuẩn là phải an cư kiết hạ mới tính là một hạ, mỗi năm theo Âm lịch từ 15
tháng 4 đến 15 tháng 7, người xuất gia đều phải định ở một chỗ, gọi là an cư kiết
hạ, để chuyên môn học Luật hoặc là học Kinh giáo, nâng cao chính mình, như vậy
gọi là một hạ. Nếu như không có an cư, thì không tính 1 hạ. Từ 10 hạ trở về
sau, Ngài càng suy xét, hỏi chính mình theo trong giới luật hiện đã làm được đến
đâu, giới Tỳ kheo, giới Bồ tát, giới Sa-di, và các điều khác đều có được không?
Ngài làm mấy thẻ thăm để hỏi Phật Bồ tát, Ngài khá ưa thích rút thăm, Ngài rất
là chân thành, làm những thẻ thăm như vậy, đến thẻ thăm cuối cùng là người Tam
quy, các giới đều không đắc, Ngũ giới cũng không đắc, chỉ còn Tam quy y, tức chỉ
là người tin Phật. Đắc được giới Tỳ kheo thì có thể làm Hòa thượng, bởi vì 10 hạ
trở lên có thể làm Hòa thượng. Ngài tự suy xét hỏi chính mình làm đến bậc nào,
thì làm thẻ thăm cũng như vậy. Ngài không phải tùy tiện mà làm, một mùa hạ 3
tháng Ngài đều tu hành trì chú bế quan suốt 3 tháng, đến 15 tháng 7 ngày Tự tứ,
kiết hạ an cư đều làm viên mãn, Ngài đốt đỉnh đầu 6 nén hương để cúng Phật, rồi
sau đó mới bốc thẻ thăm. Dùng tâm vô cùng chân thành cung kính như vậy để bốc
thẻ thăm, bắt ra thăm hiện tại chính mình là Sa-di Bồ tát giới. Do đó, từ đấy
trở đi Ngài tự xưng mình là Sa-di Bồ tát giới, nói cách khác Ngài không đắc giới
Tỳ kheo, chỉ đắc giới Bồ tát và giới Sa-di. Ngài thiết thực là người chân thật,
hoàn toàn không có truy cầu hư danh, không có nói tôi là Tỳ kheo rồi, tôi là
Hòa thượng rồi, không có, chính mình thế nào thì xưng như vậy. Nếu như chỉ có
danh vượt quá với thật sự, thì rất hổ thẹn.
Đến năm 49 tuổi, Ngài vì Kinh A Di Đà làm chú giải, sau khi
làm xong chú giải Kinh A Di Đà, Ngài còn làm ra một bộ sách Tứ Thư Giải, là chú
giải cho sách Tứ Thư của Nhà Nho. Rất nhiều người phân biệt, học Phật thì không
nên học Nho, đó là sai lầm. Đại sư Ngẫu Ích vì chúng ta thị hiện, học Phật rồi,
chú giải xong Kinh A Di Đà, còn chú giải cho Tứ Thư Nho Gia, nói rõ Nho và Phật
tương thông. Viên nhân thuyết pháp, vô pháp bất viên, quý vị thấy Đại sư Ngẫu
Ích chú giải xong Kinh A Di Đà, lại chú giải Tứ Thư. A Di Đà Kinh Yếu Giải được
Đại sư Ấn Quang khen ngợi: Cổ Phật tái lai để vì Kinh Di Đà làm chú giải, cũng
không vượt qua được Yếu Giải của Đại sư Ngẫu Ích. Điều này nói rõ cảnh giới của
Đại sư Ngẫu Ích năm 49 tuổi, hoàn toàn là cảnh giới Phật, lấy cảnh giới Phật để
chú giải cho Tứ Thư, người viên thuyết pháp, thì không pháp nào mà không viên. Do
đó, tôi giảng sách Tứ Thư, Đại Học, Luận Ngữ, toàn đều dùng chú giải của Đại sư
Ngẫu Ích, Nho và Phật viên dung tại một chỗ, thật là thù thắng.
Đại sư Ngẫu Ích đến năm 57 tuổi thì vãng sanh, trước khi
vãng sanh vào năm 56 tuổi Ngài mắc bệnh, đó cũng là vì chúng ta mà thị hiện
nghiệp chướng. Trong lúc bệnh Ngài nói: “7
ngày đêm không thể ngồi nằm”, có thể biết bệnh rất nghiêm trọng. Không thể
ngồi nằm, không thể ăn uống, không có biện pháp trị liệu. Ngài nói chính mình
không có cách đảm đương để giải thoát, duy chỉ có thiết tha xưng danh hiệu Phật
Bồ tát, cầu sanh Tịnh độ. Quý vị thấy, trong lúc bệnh nặng như vậy, Ngài vẫn
chánh niệm rõ ràng, không có lui mất chánh niệm cầu sanh Tịnh độ. Đại sư Ngẫu
Ích tự mình nói “Cụ phược phàm phu”,
tức là phàm phu phiền não chưa đoạn, “Tổn
kỷ lợi nhân”, tức tổn hại chính mình mà đem lợi ích cho người khác, người
chưa hẳn được lợi, chính mình chịu hại như vậy. Vì sao vậy? Đại sư Ngẫu Ích một
đời dốc sức cho viết sách, viết sách đến quên thân mạng. Quý vị thấy Di Đà Yếu
Giải, Ngài dùng 9 ngày 9 đêm để hoàn thành, đó thật là bỏ ngủ, quên ăn, tổn
mình lợi người, vì lợi ích chúng sanh. Tự Ngài cảm động than rằng, người chưa
chắc được lợi, chính thân ta chịu hại rất nhiều như bệnh nặng. Nói ngày thường
chỉ có dụng công trên tâm tánh, còn chưa đắc lực, Ngài là tham Thiền, dụng công
trên tâm tánh đều không đắc lực. Lại còn dụng công trên văn tự, quý vị làm chú
giải, làm Kinh giáo, ít có thật sự niệm Phật, làm sao công phu quý vị có thể đắc
lực? Ngài vì chúng ta mà khai thị. Cho nên, xuất sanh tử, thành Bồ đề không phải
là việc dễ dàng, phải lão thật chân chánh công phu niệm Phật. Không như Đại sư
Ngẫu Ích vì Ngài đã nắm chắc vãng sanh rồi, Ngài mới làm tổn mình lợi người.
Vào Tết Nguyên Đán năm 57 tuổi, Ngài viết một bài kệ, bài kệ
này có bộc lộ thân phận của Ngài. Đây là tôi đọc Niên Phổ của Ngài, tin tưởng
khả năng Ngài chính là A Di Đà Phật tái lai. Bài kệ của Ngài nói điều gì?
“Pháp Tạng đương niên
nguyện lực hoành”
Hoành là rộng lớn, Pháp Tạng Bồ Tát là tiền thân của A Di
Đà Phật.
“Ư kim khoáng kiếp hữu
đồng hành”
Tức vô số kiếp về sau, vô lượng kiếp đến nay, có một nhân vật
đồng hành theo A Di Đà Phật, tức là nói chính Ngài.
“Tuế triêu tuyển Phật
quy Viên Giác”
Tuế triêu nghĩa là đầu năm, chính là Tết Nguyên Đán, tuyển
Phật tức là phải vãng sanh thành Phật rồi, A Di Đà Phật đến để tuyển Phật rồi.
Quy Viên Giác là phải quay về rồi, vãng sanh Thế Giới Tây Phương Cực Lạc, phải
viên thành Phật đạo.
“Nguyệt dạ truyền đăng
hiển tánh minh”
Tức là Ngài đến thế gian để truyền ngọn đèn chánh pháp. Hiển
tánh minh tức là vì chúng ta thể hiện ra chân đế của Phật pháp.
“Vạn trúc tịnh triêm
tân linh tảo,
Thiên mai dĩ lộ cựu phương anh”
Đây là mượn cảnh gửi tình. Hình ảnh cây trúc, đến mùa xuân
mọc ra mầm, vạn cây trúc cùng nhú ra cành mới, Tết Nguyên Đán là tiết xuân, thời
gian còn khá sớm, cây trúc nhú ra những mầm nhỏ, còn chưa hoàn toàn mọc ra, đây
là hàm ý rất sâu. Ngàn mai, hoa mai vừa mới hé nở thì hương thơm của nó phát ra
đã tràn đầy rồi.
“Chư nhân ứng tín ngô
vô ẩn”
Tức là mọi người cần phải tin tưởng tôi không có một chút
nào giấu giếm.
“Khoái dữ cao hiền kế
túc minh”
Tôi rất vui mừng sắp theo bậc đức hạnh cao, tức là nói đến
những thượng thiện nhân ở Thế Giới Tây Phương Cực Lạc, Ngài sắp theo họ nối tiếp
lời thề. Tiếp nối lời nguyện trong quá khứ của chúng ta. Nói cách khác, tôi đến
đây là có nhiệm vụ, hiện giờ cần phải trở về nhà cũ Thế Giới Tây Phương Cực Lạc
rồi, bởi vì tôi quá khứ đã có thề nguyện như vậy. Cho nên, từ trong đó xem thấy,
khẳng định Đại sư Ngẫu Ích là người tái lai. Đến ngày 22 tháng giêng, bệnh của
Ngài đột nhiên khỏi hẳn, đúng giữa giờ ngọ, Đại sư Ngẫu Ích ngồi xếp bằng trên
giường, chấp tay mặt hướng về phía tây vãng sanh, giữ nguyên tư thế ngồi mà
vãng sanh, tuổi thọ đời 57, Pháp lạp 34, tính Hạ lạp 19. Đó là cuộc đời của Đại
sư Ngẫu Ích.
Vừa rồi là giới thiệu Nhân đề. Vì sao tôi dùng nhiều thời
gian để giới thiệu Ngài? Mục đích là để mọi người mô phỏng phát tâm như các vị
Tiên hiền. Chúng ta cần phải phát tâm học Phật, phát tâm trì giới, nhất định chính
mình phải rất kính ngưỡng, có thể bắt chước học theo một tấm gương. Nếu như
không tìm thấy được tấm gương của người hiện nay, thì cần tìm người xưa. Tôi
tìm được người xưa một vị, người nay một vị. Người ngày nay là ai? Chính là Lão
Hòa thượng Tịnh Không. Do đó, tôi mô phỏng theo 2 vị Đại đức đó, Lão Hòa thượng
Tịnh Không khuyên tôi cần phải hoằng pháp, tôi học theo Lão Nhân Gia, một đời
giảng kinh thuyết pháp. Đại sư Ngẫu Ích trì giới, nghiên giáo, niệm Phật, nhưng
mà làm một người chân thật, tất cả đều chân thật từ trong tâm. Vừa rồi, tôi kể
về cuộc đời của Ngài, quý vị có thể hiểu được Đại sư Ngẫu Ích là chân nhân,
Ngài không phải là giả nhân, làm người thật, mọi việc đều cầu sự thật, Ngài không
có một chút tùy tiện qua loa, thật thì một tơ hào cũng không cẩu thả.
Lão Hòa thượng Hư Vân là Đại đức Thiền tông, hành trì của
Ngài thật đáng để chúng ta học tập. Nên tối qua, chúng tôi chiếu phim về cuộc đời
Ngài, rất là thú vị, đem cuộc đời của Ngài diễn xuất ra. Đại sư Ngẫu Ích chưa
có người đạo diễn, tôi chỉ có thể đề xuất, cần có đạo diễn, vậy thì rất hay. Mọi
người thông qua xem cuộc đời của Lão Hòa thượng Hư Vân tức phim Trăm Năm Hư
Vân, đoạn phim từ lúc Ngài phát tâm đến lúc xuất gia, thì có thể làm phát chí
khí đạo tâm của chúng ta. Nhưng chúng ta cần phải không lấy làm vui sướng hứng
thú với phim ảnh, quý vị như vậy là phạm giới rồi. Vì sao vậy? Bát Quan Trai Giới
có một giới là không ca vũ xướng kỹ, xem phim cũng thuộc về ca vũ xướng kỹ. Nhưng
chúng ta không dùng loại tâm thưởng thức để xem, mà thật sự dùng làm tư liệu của
mình, để học tập đạo tâm của Ngài, học sự trì giới, học tập khổ hạnh của Ngài.
Ngài thật đúng là “Lấy khổ làm thầy, lấy
giới làm thầy”.
Phần Nhân đề giới thiếu đến đây thôi, phần sau giới thiệu đến
chánh văn. Trước hết giảng đơn giản cùng mọi người lời nói đầu, lời nói đầu là
do Đại sư Ngẫu Ích tự viết, nên rất quan trọng, chúng ta đọc trước một đoạn:
“Xuất gia thọ Thập
giới, gọi là Sa-di, Trung Hoa dịch là Tức từ. Nghĩa là cần dứt nhiễm tình thế
gian, lấy lòng từ để tế độ chúng sanh. Lại nói: Mới vào Phật pháp, còn nhiều
tình tục, nên cần dừng ác hành từ vậy. Đường Tam Tạng nói: Thất lợi ma na lộ
ca. Nơi này phiên dịch thành Cần sách Nam. Kí Quy Truyền nói: Thọ thập giới rồi,
gọi Thất la mạt ni, dịch thành Cầu tịch.”
Xuất gia, cạo tóc rồi, mặc y phục người xuất gia, cần thưa
thọ “Thập giới”, tức là 10 giới Sa-di. Tôi nói đây là 10 giới Sa-di, cũng bao gồm
cả Bát Quan Trai Giới ở trong đó, Bát Quan Trai Giới là trải qua một ngày một
đêm đời sống như người xuất gia, nên đều học chung. Thọ 10 giới rồi gọi là Sa-di.
Từ Sa-di là Phạn ngữ, phiên dịch thành tiếng Trung gọi là “Tức từ”. Nó có mấy
cách dịch, đây là cách dịch theo Chung Nam Sơn Luật sư Đạo Tuyên. Luật sư Đạo
Tuyên khai sáng Luật tông, trong 8 tông phái lớn của Đại thừa, Ngài Khai sáng
Luật tông, Ngài thường sống ở núi Chung Nam, tỉnh Thiểm Tây, nên người xưa cũng
xưng Ngài là Đại sư Nam Sơn. Ngài chuyên hoằng bộ Luật Tứ Phần, bởi vì giới luật
có: Luật Tứ Phần, Luật Ngũ Phần, Luật Thập Tụng, các bộ đó không giống nhau. Tại
Trung Hoa đều chuyên dựa theo bộ Luật Tứ Phần, đương nhiên có thể đồng thời
tham khảo các bộ giới luật khác. Nam Sơn Luật sư dịch chữ Sa-di thành “Tức từ”,
nghĩa là “Tức thế nhiễm chi tình, dĩ từ tế quần sanh”. Đây là dịch theo ý
nghĩa. Tức nghĩa là tức diệt, là ngừng diệt đi tình ô nhiễm của thế tục, tình ở
đây là phiền não, bỏ đi ô nhiễm tình của đời thường, đó là ý nghĩa của chữ tức.
Từ tế chúng sanh, đó là hành từ. Cho nên “Tức từ” có 2 hàm nghĩa, không phải chỉ
là tu cho chính mình, không cứu giúp chúng sanh, như vậy không phải là Sa-di, Sa-di
thì cần phải tự độ, lại cần độ tha. Nên Sa-di là học diệt trừ đi những phiền
não tham sân si, còn phải làm từ bi, phải phát tâm Bồ đề, hành đạo Bồ tát.
Lại nói: “Mới vào Phật pháp, còn nhiều tục tình, cho nên cần
dứt ác hành từ vậy”. Luật sư Đạo Tuyên lại nói, vừa mới vào cửa Phật, quý vị thọ
giới Sa-di, người mới vào cửa Phật đều rất nhiều tình tục. Thí dụ như sáng nay
tôi đề cập đến là rất nhiều thói quen thích phóng túng, né khổ, giải đãi lười
biếng, lại còn tham đồ hưởng thụ. Đó đều là thuộc về tục tình thế gian. Trong mấy
ngày này, chúng ta cần phải diệt trừ nó, phải buông xả những tập khí đó. Vì sao
cần phải buông xả? Vì nó không tương ưng với tánh đức của Tự tánh, chúng ta cần
khôi phục Tự tánh, tức là phải thành Phật đạo, những tập khí đó chướng ngại
chúng ta quay về Tự tánh nên cần phải buông bỏ phiền não. Vì vậy phải “Tức ác
hành từ”. Cái gì là ác? Phiền não đều gọi là ác, từ là tánh đức, từ bi giúp đỡ
chúng sanh.
Gần như cùng thời đại với Luật sư Đạo Tuyên, cùng triều Đường,
là Đại sư Huyền Trang được xưng là “Tam Tạng”. Chúng ta xem trong Tây Du Ký, Đường
Tam Tạng tức là Đại sư Huyền Trang. Tam Tạng là ba tạng Kinh, Luật, Luận. Người
tinh thông cả ba tạng này được gọi là Tam tạng Pháp sư. Ngài Đại sư Huyền Trang
đến Ấn Độ để thỉnh Kinh, Ngài phiên dịch gọi là “Thất lợi ma na lộ ca”, đó là
hoàn toàn dựa theo ý Phạn văn mà dịch qua, nên nếu dùng Phạm văn mà đọc là Sramanera, tức là ý nghĩa của Sa-di. Dịch
thành Trung văn, Ngài dịch thành “Cần sách nam”. Cần nghĩa là siêng năng, sách
nghĩa là khuyến khích, sách tấn. Nam nghĩa là nam chúng, nữ chúng gọi là Sa-di
ni. Theo sách “Kí Quy Truyền” của Pháp sư Nghĩa Tịnh triều Đường, Ngài là Sư
Kinh của phiên dịch, Ngài có một bản Luật gọi là Kí Quy Truyền. Bởi vì Ngài đã
qua Ấn Độ, Ngài viết một quyển sách cho người Đông Độ gọi là Kí Quy Truyền.
Trong đó, Ngài nói về người từ khi thọ 10 giới gọi là “Thất la mạt ni”, từ Phạn
văn phiên dịch thành Trung văn là một cách dịch khác theo âm, so với cách dịch
của Đại sư Huyền Trang là sai khác không nhiều, Ngài dịch thành Trung văn là “Cầu
tịch”, tịch nghĩa là tịch diệt, cầu đạt đến cảnh giới đoạn hết phiền não gọi là
cầu tịch. Cho nên, Sa-di có ba tên gọi là do ba phương pháp phiên dịch không giống
nhau, đều giống phần lớn, chỉ sai khác nhỏ. Thời gian của buổi học hôm nay hết
rồi, chúng tôi giảng chỉ được một đoạn đầu, phần còn lại ngày mai chúng tôi tiếp
tục chia sẻ cùng mọi người. Cảm ơn mọi người.
( Hết tập 2)
Nguyện
đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều sanh về Tịnh độ.
Nam Mô A Di Đà Phật.