PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM,
THANH TỊNH, BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH
Phúc giảng lần thứ hai: Cô Lưu Tố Vân
Thời gian: 02/12/2020
Địa điểm: Tiểu viện Lục Hòa
Tập 23
Chư
vị đồng tu tôn kính, xin chào mọi người, A-di-đà Phật!
Tiết
học hôm nay trước tiên chúng ta tổng kết một chút những trọng tâm của
kinh văn phẩm thứ ba “Đại Giáo Duyên Khởi Đệ Tam”. Kinh văn phẩm thứ ba
không dài, nhưng nội dung rất quan trọng. Chúng tôi giảng hết ba
tiết, từ tập 20 đến tập 22, tổng kết lại những trọng tâm như
sau để quý vị đồng tu tham khảo.
Trọng
tâm thứ nhất: kinh văn phẩm thứ ba là Phát Khởi Tự trong phần Tựa của
cả bộ kinh, đại biểu nhân duyên phát khởi bộ kinh này. Bốn mươi tám phẩm
trong cả bộ kinh Vô Lượng Thọ có thể chia thành ba phần.
Một, phần Tựa.
Hai, phần Chánh Tông.
Ba, phần Lưu Thông.
Phần
Tựa giống như đầu của con người, có lông mày, mắt, tai, mũi,
miệng, có thể biểu hiện trí tuệ và thiện ác của người này. Phần Chánh
Tông giống như thân thể. Phần Lưu Thông giống như tay chân.
Phẩm
thứ nhất và thứ hai của kinh này là Phần Tựa Chung, cũng gọi là Phần Tựa
Chứng Tín. Phần này các kinh đều có, trong đó bao gồm sáu
loại “Tín, Văn, Thời, Chủ, Xứ, Chúng”, để chứng minh kinh văn thực sự
do Phật nói ra. Sáu loại này, trong Giáo gọi là “sáu loại thành
tựu”. Người giảng là ai? Nghe xong giảng lại là ai? Thời gian,
địa điểm, đại chúng cùng nghe là ai? Đều viết rõ ràng để chứng minh
việc giảng kinh là sự thực. Căn cứ vào kinh này mà nói, sáu loại
thành tựu là:
Một, “Như thị” là Tín Thành Tựu.
Hai, “Ngã văn” là Văn Thành Tựu.
Ba, “Nhất thời” là Thời Thành Tựu.
Bốn, “Phật” là Chủ Thành Tựu.
Năm, “Trong núi Kỳ-xà-quật tại thành
Vương-xá là Xứ Thành Tựu.
Sáu, chúng Thanh văn, chúng Bồ-tát v.v… là
Chúng Thành Tựu.
Kinh
văn phẩm thứ ba là Phần Tựa riêng, Phần Tựa riêng là phần Tựa chỉ kinh này
mới có. Phần Tựa riêng còn gọi là Phần tựa Phát Khởi, phát khởi chánh
văn của kinh này. Sáu loại thành tựu của hai phẩm đầu tiên trong kinh
là Chánh Tín, trong Phát Khởi Tự lại có năm lần Chứng Tín.
Thứ nhất, phóng quang hiện tướng lành, trước nay chưa
từng có.
Thứ hai, A-nan biết được nhất định là do chư Phật
niệm nhau.
Thứ ba, Phật tán thán A-nan rằng hết thảy hàm
linh trong tương lai đều nhờ câu hỏi của A-nan mà được độ thoát.
Thứ tư, Phật nói với A-nan, sở dĩ Phật xuất hiện
trên đời là để mang lại lợi ích chân thật cho chúng sanh. Lợi ích
chân thật là biển nguyện Di-đà, danh hiệu Di-đà, niệm Phật vãng
sanh.
Thứ năm, tuyên thuyết định tuệ của Phật thông suốt rốt
ráo vô cùng, một sát-na bình đẳng với vô lượng kiếp, đối với hết thảy
pháp, tự tại tối thắng.
Trên
đây là năm lần Chứng Tín, bởi vì diệu pháp Tịnh tông và thánh trí của Như
Lai đều không phải là điều mà hàng Đẳng giác Bồ-tát có thể biết
được, chỉ Phật với Phật mới có thể rốt ráo. Công đức chân thật của
biển nguyện Nhất Thừa, sáu chữ hồng danh cũng không phải là điều mà
phàm phu có thể nằm mơ thấy được. Nên Phật chỉ đành tuyên thuyết định huệ
diệu dụng không thể nghĩ bàn của chính mình, khuyên hàng hậu
học mặc dù không thể hiểu được pháp môn tín nguyện trì danh vi diệu
mà Phật đã nói, nhưng hãy nên kính tin, hoan hỷ tôn trọng, y
giáo phụng hành. Tu tập lâu ngày, thì càng ngày sẽ càng hiểu rõ hơn.
Trọng
tâm thứ hai: nhận thức hàm nghĩa sâu xa của chân thật chi tế và chân
thật chi lợi. Kinh văn trong phần Tựa giới thiệu hai loại chân
thật: chân thật chi tế và chân thật chi lợi, hai loại này giống với
hai đoạn mở đầu mà Liên Trì đại sư nói trong Di-đà Sớ Sao.
Đoạn
thứ nhất: “Trí tuệ thông suốt thấu triệt, thường hằng tịch tĩnh, không
đục không trong, không quay lưng không hướng đến, chân thể lớn
thay! Chỉ có tự tánh không thể nghĩ bàn! Vì vậy, chúng ta khai
hóa hiển thị chân thật chi tế, chỗ rốt ráo chân thật chính là tự
tánh, cũng chính là trí tuệ thông suốt thấu triệt, thường hằng tịch
tĩnh của chân thể lớn. Đây chính là chân thật chi tế của kinh này.
Đoạn
thứ hai: vốn dĩ không có đục, không có trong, không quay lưng, không
hướng đến, nhưng chúng sanh đã đục, đã quay lưng, bội giác hợp trần,
nên cần gạn lọc lại. “Trừng trược nhi thanh”, gạn lọc lại những thứ
vẩn đục; “phản bội vi hướng”, biến bội giác thành hướng
giác. “Vượt khỏi ba a-tăng-kỳ trong một niệm”, tu hành trong ba đại
A-tăng-kỳ kiếp mới có thể thành Phật, đây là cách tu mà Chung Giáo
kiên trì, nhưng một niệm thì có thể vượt qua, một câu danh
hiệu có thể thành tựu quả giác vô thượng, đồng thời “ngang với chư
thánh nhờ một câu”. Các vị thánh nhân Văn-thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Thế
Chí, bạn niệm một câu Nam-mô A-di-đà Phật, bình đẳng bình đẳng. “Diệu
dụng lớn thay, cũng chỉ có Kinh Phật thuyết A-di-đà không thể nghĩ
bàn”. Cũng có nghĩa là diệu dụng ở chỗ trì danh niệm Phật. Công
hiệu của một niệm trong sát-na có thể sánh với sự tu hành ba đại a-tăng-kỳ
kiếp một câu danh hiệu thì địa vị lập tức ngang bằng các vị Đại
Bồ-tát như Quán Âm, Thế Chí. Lớn thay! Diệu dụng không thể nghĩ
bàn. Hiển hiện lợi ích chân thật mà chúng sanh đạt được. Hai bộ kinh
cùng một tông chỉ. Diệu dụng như vậy, trong một niệm có thể vượt
khỏi ba đại a-tăng-kỳ kiếp. Bạn niệm một câu Phật hiệu không tạp nhiễm, bạn
liền bình đẳng với chư Thánh. Đây là lợi ích chân thật mà chư Phật
ban cho chúng sanh khi xuất hiện ở đời. Chúng ta may mắn nghe
được, thực sự là một ngày hiếm có khó gặp từ vô lượng kiếp đến
nay.
Trọng
tâm thứ ba: biết được địa vị và tác dụng của tôn giả A-nan trong một
đời giáo hóa của Thích-ca Mâu-ni Phật.
Một, ngài là nhân vật quan trọng trong đại
giáo, ngài là thị giả của Phật.
Hai, ngài là người đầu tiên trong lịch sử Phật
giáo phúc giảng kinh điển mà Thích-ca Mâu-ni Phật đã
giảng, người đầu tiên phúc giảng.
Ba, ngài là người kết tập kinh tạng.
Bốn, ngài là vị tổ thứ hai của Thiền
tông, truyền tâm ấn của Phật.
Năm, ngài là tập pháp Kim Cang của Mật tông.
Sáu, ngài đã truyền thừa Thiền tông và Mật
tông, nối dòng huệ mạng Phật.
Bảy, ngài thị hiện sơ quả La-hán, nhưng không
phải sơ quả La-hán, ngài là Phật Bồ-tát tái lai, giúp Phật hoằng
pháp.
Tám, ngài là người đương cơ của kinh Vô Lượng
Thọ. Một mình ngài hội tụ Thiền, Mật, Tịnh vạn pháp quy nhất, kinh Vô
Lượng Thọ tuy khác đường nhưng cùng đích đến.
Trọng
tâm thứ tư: Phật trụ đại tịch định, đại tịch định là định
gì? Phật trụ pháp kỳ đặc, pháp này là pháp gì? Đại tịch định này
chính là niệm Phật Tam-muội. Pháp kỳ đặc này chính là trì danh niệm
Phật. Nhớ kỹ ba câu quan trọng này:
Một, “chư Phật sở trụ” là Di-đà Tịnh độ.
Hai, “đạo sư chi hạnh” là tín nguyện trì danh.
Ba, Di-đà Tịnh-độ và tín nguyện trì danh đều
là “tối thắng chi đạo”.
Trọng
tâm thứ năm: A-nan thỉnh pháp có công đức gì? Công đức này lớn thế
nào? Tại sao Phật lại tán thán? Công đức thỉnh pháp của A-nan là
thỉnh được một bộ kinh Vô Lượng Thọ có thể cứu giúp chúng sanh khổ
nạn trong thời mạt pháp chín ngàn năm thoát khỏi biển khổ. Công đức
thỉnh pháp của A-nan gấp trăm ngàn vạn lần công đức cúng dường A-la-hán, Bích-chi
Phật trong một thiên hạ. Gấp trăm ngàn vạn lần công đức bố thí lũy
kiếp cho chư thiên, nhân dân, các loài trùng bò, bay”. “Chư thiên,
nhân dân, hết thảy hàm linh trong tương lai đều nhờ câu hỏi của con mà
được độ thoát”.
Phật
tán thán A-nan thỉnh pháp là vì:
Một, A-nan thỉnh pháp “xứng cơ”. Tức là khế
cơ mà chúng ta nói, thời điểm nhân duyên đến rồi, thỉnh pháp vào lúc
này rất hợp thời, cơ duyên chúng sanh thành Phật đã chín muồi.
Hai, “thỏa bổn hoài của Phật”, “hợp với tâm
Phật”, Như Lai sở dĩ xuất hiện trên thế gian chỉ để nói biển bổn
nguyện của Phật Di-đà. Bổn nguyện Di-đà chính là bộ kinh Vô Lượng Thọ
này, chính là bốn mươi tám nguyện. Thích-ca Mâu-ni Phật vì nói
bộ kinh này mà thị hiện trên thế gian.
Ba, A-nan thay mặt đại chúng thỉnh
pháp. “Con vì thương xót và lợi lạc cho các chúng sanh nên có thể hỏi
ra nghĩa vi diệu như vậy”. Người có thể hỏi nghĩa vi diệu như
vậy cũng rất hiếm có khó gặp. Chỉ có tâm vĩ đại như vậy của
A-nan mới có thể hỏi ra câu hỏi thù thắng vi diệu như vậy, Thế Tôn
hoan hỷ.
Trọng
tâm thứ sáu: học tập mười sự tự tại của chư Phật Như Lai. Mười sự tự
tại là: Mạng tự tại, Tâm tự tại, Tư cụ tự tại, Nghiệp tự
tại, Thọ sanh tự tại, Giải tự tại, Nguyện tự tại, Thần lực tự
tại, Pháp tự tại, Trí tự tại. Ai có mười điều tự tại này? Chư
Phật Như Lai có. Bồ-tát có hay không? Không có. Chúng ta có hay
không? Không có. Làm thế nào mới có được? Thành Phật liền
có. Làm thế nào mới có thể thành Phật? Tu tâm thanh tịnh, niệm Phật
thành Phật.
Trọng
tâm thứ bảy: làm thế nào để áp dụng Phật pháp vào trong cuộc sống
thường ngày. Vấn đề này là vấn đề quan trọng mà tôi muốn giải
quyết khi phúc giảng kinh Vô Lượng Thọ lần thứ hai này. Tại sao
vậy? Bởi vì nhiều năm như vậy, tôi nhìn thấy bạn đồng tu của mình học
Phật, học rất bận rộn, rất mệt mỏi, rất vất vả, đồng thời cũng rất
phiền não. Học Phật như vậy rốt cuộc có ý nghĩa thực tế gì
không? Không có chút ý nghĩa thực tế nào, phải đi về cõi nào thì về
cõi đó. Vấn đề nằm ở đâu? Lý luận xa rời thực tế, đây là vấn đề
chung tồn tại phổ biến. Chú trọng quá nhiều điều về mặt hình thức, lơ
là quá nhiều điều trên thực chất.
Điều
thực chất là gì? Trước khi lão Bồ-tát Lưu Tố Thanh vãng sanh đã nói
với chúng ta hai chữ: “Đổi tâm”. Đổi tâm phàm phu của chúng ta thành
tâm Phật, thành tâm Bồ-tát, thành tâm A-la-hán. Đơn giản mà
nói, [tức là] đổi tâm phàm phu của chúng ta thành tâm thánh
hiền. Đổi tâm như thế nào? Để tôi nói một chút về trải nghiệm và cảm
nhận của tôi.
Một, quá trình đổi tâm là một quá trình rèn
luyện đau khổ. Để tôi nêu một ví dụ cho mọi người. Mấy năm trước tôi
bị phê bình, bị mắng, trong lòng tôi không dễ chịu, không phục, mặc
dù tôi không ra công khai tranh luận, nhưng nội tâm tôi vô cùng kháng
cự. Tôi tu pháp môn gì, tôi đọc kinh gì là chuyện của tôi, dựa vào
đâu mà bạn phê bình, mắng tôi? Có thể nói là như vậy, hơn nửa đời
người chưa từng bị oan ức như vậy, không thích ứng được, không tiếp nhận
được, trong lòng rất đau khổ, thật sự khó mà trải qua được, tâm
này chậm chạp không đổi được. Làm thế nào đổi được vậy?
Hai, tìm đối tượng so sánh làm tấm gương. Tôi
có duyên với Quán Thế Âm Bồ-tát, Quán Thế Âm Bồ-tát là đối tượng so
sánh của tôi, mỗi khi tôi gặp người hay chuyện không thể vượt qua
được, tôi liền nghĩ, nếu Quán Âm Bồ-tát gặp phải người và chuyện như
vậy, ngài sẽ xử lý như thế nào? Ngài sẽ không tức giận, không
phiền não, không phát cáu, không oán hận, không báo
thù. Quán Âm Bồ-tát đại từ đại bi, tôi học Quán Âm Bồ-tát, ngài
có thể làm được, tôi cũng phải làm được. Tôi phải thật học theo Bồ-tát, học
cho giống mới thật sự làm Bồ-tát.
Ba, không quan tâm đến “cái tôi”. “Cái tôi”
này là sự ràng buộc lớn nhất trong cuộc đời mỗi người chúng ta. Bất
kể chuyện nào cũng không thiếu được “cái tôi” hại người không ít
này, nhưng mà con người lại cứ ưa thích “cái tôi” này, để mặc nó hại
bạn mấy chục năm. Tôi đã phá “cái tôi” này như thế nào? Có thể trường
hợp của tôi khá đặc biệt. Năm 2000 tôi bị bệnh nặng, phải đối
mặt với cái chết bất cứ lúc nào. Năm đó tôi 55 tuổi, đáng lẽ là năm
cuối cùng của đời tôi, nhưng kì tích lại xuất hiện, bệnh của tôi nặng
như vậy không trị mà khỏi. Sau đó tôi biết: Là A-di-đà Phật giữ tôi
lại để phục vụ chúng sanh, nếu đã như vậy, “cái tôi” ban đầu sớm đã
không còn tồn tại nữa. Tôi hiện nay là cái tôi mới toàn tâm toàn ý
phục vụ cho chúng sanh. Nên tôi nói, hết thảy những gì tôi
có đều thuộc về chúng sanh khổ nạn, không có thứ gì thuộc về
tôi. Phục vụ cho chúng sanh là chuyện tôi cảm thấy vui vẻ nhất.
Bốn, không quan tâm đến được mất. Hồi tưởng
lại cuộc đời hơn bảy mươi năm của tôi, tôi có thể sống khá tự tại như
vậy là nhờ vào “khờ”. Có thể là khờ có phước của khờ. Tôi có một
ưu điểm, đó là không suy nghĩ. Chưa từng nghĩ đến tôi phải đạt được
điều gì, cũng chưa từng nghĩ đến tôi đã mất điều gì. Tôi cảm thấy suy
nghĩ rất mệt, không nghĩ gì rất tốt. Tôi là người điển hình tùy duyên
sống qua ngày. Người như tôi không có tâm tranh giành. Để tôi kể ví
dụ cho mọi người nghe.
Năm
1984, tôi được điều từ Ban tuyên truyền của đảng ủy nhà máy Đông
An đến chính quyền tỉnh làm việc, không có cấp bậc, chức vụ là
trợ lý, năm đó tôi 39 tuổi. Bởi vì tôi ăn mặc quá quê mùa, nên
được mọi người đặt cho biệt danh là “đồ cổ được khai quật”. Trong hai năm
1984, 1985 tôi liên tục thăng hai cấp, phó ban, trưởng ban, mà
hai cấp này được đề bạt cùng lúc. Không lâu sau có người nói với
tôi, chị thật thích hợp, một lần tăng hai cấp, đây là chuyện chưa
từng có trong đảng ủy chúng ta. Tôi hỏi anh ấy, vậy tại sao tôi lại
được thăng hai cấp? Anh ấy nói với tôi, nghe nói là do Tổng Bí Thư đề
nghị. Tổng Bí Thư là lãnh đạo đảng ủy của sở chúng tôi.
Đến
nửa cuối năm 1986, trong đảng ủy đề bạt cán bộ. Tôi có tên trong danh
sách đề bạt làm phó sở, các phòng ban gạch phiếu, quá trình
đó tôi đều có tên trong danh sách, nhưng khi công bố kết quả lại
không có tôi. Có người nói với tôi, đi tìm lãnh đạo hỏi xem có chuyện
gì. Tôi nói, đề bạt hay không là chuyện của đảng ủy, tôi không đi
hỏi, đề bạt ai cũng được. Cứ như vậy, từ năm 1986 đến 1992, đảng ủy
của chúng tôi lại đề bạt cán bộ bốn lần, không có chuyện của tôi
nữa. Có vị trưởng phòng quan tâm hỏi tôi: Tố Vân, con phạm phải
sai lầm gì sao? Tôi trả lời, con không phạm sai lầm gì, bản thân con
cảm thấy rất tốt. Đến năm 1992, lúc đó tôi làm nhân viên tổ chức của
cơ quan đảng ủy, ban công tác đảng ủy của chính quyền tỉnh đã cho
đảng ủy của tôi một nhiệm vụ, đề bạt tôi là phó ban tổ chức. Qua
khoảng hai năm rưỡi, tôi được đề bạt làm chánh văn phòng, chủ nhiệm
phòng giám sát. Khi đó, trong đảng ủy có một chị lớn tuổi trong cơ quan
nói với tôi, Tố Vân, chị lớn tuổi hơn em, được đề bạt làm phó phòng
sớm hơn em sáu năm, bây giờ em được đề bạt làm chánh văn phòng, chị
vẫn làm phó phòng, trong lòng có chút bất bình. Lần này em nhường cho
chị được không? Hơn nữa chị ấy còn nêu ra một vấn đề: đảng ủy chúng
ta muốn từ phó văn phòng lên chánh văn phòng phải đủ ba năm, em mới
làm phó phòng hai năm rưỡi, tại sao thoáng chốc lại được đề bạt làm chánh
văn phòng? Hơn nữa còn là trưởng phòng thực nghiệm? Tôi nói với chị
ấy, vấn đề chị hỏi em không trả lời được, đợi em đi hỏi lãnh đạo rồi
trả lời chị. Lúc đó tôi có đi tìm chủ nhiệm Trương, nói rõ đầu
đuôi sự việc cho ông ấy nghe.
Chủ
nhiệm Trương hỏi tôi: cô tới tìm tôi là muốn nói điều gì? Tôi nói:
nhường vị trí đó cho chị ấy. Chủ nhiệm Trương dùng ánh mắt kì lạ nhìn
tôi, hỏi tôi một câu: tại sao vậy? Tôi nói, hơn năm mươi tuổi
rồi, đồng nghiệp nữ lòng dạ hẹp hòi, đừng để vì chuyện này mà tức
giận sinh bệnh. Chủ nhiệm Trương nói, cô không phải cũng là đồng
nghiệp nữ sao? Bị một phó phòng chèn ép sáu năm không được đề bạt, ai
đứng ra nói lời công đạo cho cô? Sao cô không tức giận sinh bệnh
vậy? Tôi nói tâm tôi lớn, không muốn làm quan. Chủ nhiệm Trương
nói, ai muốn làm thì được làm sao? Có lý nào như vậy! Chỉ vài
lời đã khiến tôi ấp úng. Không biết mọi người nghĩ gì về ví dụ
này: tôi đã có được, hay là mất đi? Có người nói đề bạt làm chánh văn
phòng là có được; phó phòng chèn ép sáu năm không được đề bạt, đó là
mất đi. Bản thân tôi cho rằng, tôi không được gì và cũng không
mất gì. Chỉ cần tâm bạn cân bằng thì cán cân đó vĩnh viễn không
nghiêng lệch. Không quan tâm đến được mất, biết rõ đạo lý “hết thảy
pháp vô sở hữu, đều là không, không thể đạt được” thì bạn còn lo được
lo mất sao? Không quan tâm đến được mất, biết đủ thường vui, bạn
sẽ có một đời sống vui vẻ.
Năm, không quan tâm đến vinh nhục. Đời này
của tôi có thể nói là nửa vinh nửa nhục, nửa chê nửa khen. So
sánh với nhau, vinh nhiều hơn nhục, khen nhiều hơn chê. Như vậy tôi
cũng khá hài lòng rồi, đây là đời sống thật của tôi. Tôi có sự nhận
thức về vinh nhục khác với mọi người: Hai cửa ải vinh và
nhục, hai cửa ải này không dễ bước qua. Cửa vinh không dễ bước
qua, cửa nhục không dễ qua. Nhưng so sánh hai cửa ải này mà
nói, đối với tôi thì tôi cảm thấy cửa vinh khó bước qua hơn cửa
nhục. Những năm này, tôi đang qua hai cửa ải này cùng lúc. Cho đến
nay, tự mình cảm nhận, tôi đã bước qua cả hai cửa ải này
rồi. Tôi cảm thấy rất vui mừng an ủi. Đối với vinh, tôi không còn cảm
thấy lâng lâng, trước sau như một; đối với nhục, tôi thản nhiên đối
mặt, trong lòng cảm ân, không hận không oán. Những năm này, vinh
dự lớn nhất mà tôi nhận được là sự chứng nhận của sư phụ trong quá trình
giảng kinh, sư phụ nhiều lần nhắc đến tôi, đây cũng là điều mà các
đồng tu vô cùng ngưỡng mộ. Tôi đã nói với các đồng tu nhiều lần, lão
pháp sư không chỉ tán thán một mình Lưu Tố Vân tôi, mà tán thán tất
cả những người niệm Phật chân chánh. Mọi người biết không? Người niệm
Phật chân chánh là bảo bối trong tay lão pháp sư. Mong rằng quý vị
đồng tu ai cũng là bảo bối trong tay sư trưởng. Tôi cũng là nhờ ánh
sáng của sáu chữ, “thành thật, nghe lời, thật làm” mà trở thành bảo
bối trong tay lão pháp sư.
Những
năm này, bị hủy báng, chửi mắng, ác ý vu khống, đã đạt đến đỉnh điểm
trong đời sống. Trải qua nhiều năm rèn luyện như vậy, tôi đã quen
với những chuyện như vậy, không còn thấy lạ nữa. Lúc mới đầu tôi
không hiểu, tại sao mọi người có thể nói lung tung như vậy! Mọi người
phải chịu trách nhiệm đối với mỗi câu mình nói ra. Có trách nhiệm với
người khác, có trách nhiệm với chính mình. Sau đó tôi hiểu được, có
một số người thích nói lung tung, vậy thì phải làm sao? Mặc kệ họ
thôi!
Đối
với những chuyện như vậy, tôi giữ vững nguyên tắc của mình: không đối
lập với bất kì người, việc, vật nào. Trên thế gian này không người
nào tôi không yêu thương, trên thế gian này tôi không hận người nào, trên
thế gian này không người nào mà tôi không thể tha thứ. Trong cuộc đời
của tôi không có oan gia trái chủ, họ đều là người thân, là ân nhân
của tôi. Không tranh luận, không thảo luận, không biện luận, không
giải thích. Giữ vững những nguyên tắc này khiến tâm của tôi càng ngày
càng thanh tịnh, càng ngày càng bình đẳng, càng ngày càng gần với
giác rồi.
Tâm thanh tịnh như nước,
Ngày ngày sanh trí
tuệ.
Vinh nhục đều là giả
Hà tất coi là thật.
Sáu, không quan tâm đến sống chết. Rất nhiều
người khi nghĩ đến cái chết đều cảm thấy rất đáng sợ. Xưa nay trong
ngoài nước đều có hiện tượng này. Có mấy ai không sợ chết? Người học
Phật cũng không ngoại lệ. Tại sao con người lại tham sống sợ
chết? Bởi vì không hiểu chân tướng của sống chết. Nếu như biết được
chân tướng của sống chết thì sẽ không tham sống, cũng không sợ
chết. Tham sống sợ chết là vọng niệm, là vọng tưởng. Mọi người nghĩ
thử xem, tham sống có thể sống sao? Sợ chết có thể không chết
sao? Phàm phu lục đạo sống trong vọng tưởng, đây là chuyện rất
khổ. Người niệm Phật nhất định phải ghi nhớ, tuyệt đối không được
tham sống sợ chết. Người nước ngoài nghiên cứu về cái chết, kết luận
của họ là con người sẽ không chết, mà cái gì chết? Là thân thể. Thân
thể có sống chết, thân thể không phải là chính mình. Hiện nay, người
nước ngoài đã thừa nhận có linh hồn, họ cho rằng linh hồn là chính
mình. Chúng ta nói theo Phật pháp, linh hồn vẫn không phải là chính
mình, chính mình thật sự là gì? Chính mình thật sự là tự
tánh, đó mới là chính mình thực sự. Vậy thì linh hồn là chuyện như
thế nào? Linh hồn là trạng thái mê hoặc điên đảo của bản tánh. Sau
này nói linh hồn là chính mình, vậy cũng đã tiến bộ rất nhiều rồi.
Vì
vậy, chúng ta nhất định phải biết: tự tánh là chính mình thực
sự, không sanh không diệt, không đến không đi, đây là cái tôi thật
sự. Thân thể này giống như quần áo rách vậy, phải đổi một bộ
mới; giống như căn nhà lâu ngày sắp bị sập, phải đổi một căn nhà
mới. Nên thân thể thường có thể thay đổi. Từ vô lượng kiếp đến nay, không
biết chúng ta đã thay đổi bao nhiêu lần rồi, điều này có gì đáng
sợ? Điều này có gì ghê gớm? Trong quan niệm sai lầm của người bình
thường có sống chết, nhưng thực ra không có sống chết. Cửa Phật nói
“liễu sanh tử”; liễu là hiểu rõ, chỉ cần bạn biết sống chết rốt cuộc
là chuyện như thế nào; sống, bạn sẽ không tham sống; chết, bạn cũng
sẽ không sợ chết. Cho nên người niệm Phật chân chánh, không hề sợ hãi
sống chết! Thật sự hiểu được thế nào là coi cái chết như trở về nhà.
Lão
hòa thượng thượng Hải hạ Hiền, lão Bồ-tát Lưu Tố Thanh, lão Bồ-tát
Lưu Minh Hoa, các ngài có sanh tử không? Không có. Các ngài sống mà
ra đi, là vô lượng thọ thật sự. Chư Phật Bồ-tát từ bi, để tôi
đích thân trải nghiệm và tận mắt nhìn thấy toàn bộ quá trình hai vị
Bồ-tát Lưu Tố Thanh, Lưu Minh Hoa sống mà vãng sanh. Tôi khẳng định người
niệm Phật chân chánh không có sống chết, các ngài là sống mà vãng
sanh. Đối mặt với sự vãng sanh tiêu dao tự tại của các ngài, chúng ta
cảm thấy sanh tử còn gì đáng sợ đâu?
Nói
một chút về quá trình nhận thức của tôi đối với sống chết. Nói
chung tôi là người không sợ chết. Trước năm 20 tuổi không biết
thế nào là chết. Chưa từng thấy qua, thậm chí chưa từng nghe
đến, cho nên không thể nói đến sợ hay không sợ chết được. Sau năm 20
tuổi, liên tiếp thấy ông ngoại, bà ngoại, cha mẹ, cha mẹ chồng qua
đời, biết được già rồi thì sẽ chết. Không biết tại sao, đối mặt
với cái chết của người thân, tôi không biết khóc. Tôi nhớ lúc đưa
tiễn mẹ, quan tài chuyển lên xe rồi, tôi đứng bên cạnh không rơi
một giọt nước mắt nào. Học sinh, phụ huynh của tôi ở dưới xe kêu
lên: cô phải khóc chứ, cô mau khóc đi! Tôi nói: tôi khóc không
được. Chẳng lẽ tôi là người vô tình vô nghĩa sao? Không phải. Đó là
người mẹ mà tôi thương nhất mà! Năm mẹ qua đời tôi 40 tuổi. Cũng chưa
cảm thấy sự đáng sợ của cái chết. Tôi cảm thấy đây là quy luật tự
nhiên, không ai có thể chống lại, càng không ai có thể vượt
qua.
Nói
một chút cảm nhận của tôi khi người thân qua đời: Sau khi kết
hôn, tôi vẫn luôn sống chung với cha mẹ chồng, cho đến khi cha mẹ
chồng qua đời. Tôi sống chung với cha chồng 18 năm, sống chung với mẹ
chồng 22 năm. Hai đứa con của tôi đều nhờ cha mẹ chồng nuôi
nấng, tôi không cần lo lắng chút nào, trừ những lúc con bệnh cần tôi
bên cạnh, những lúc còn lại đều do cha mẹ chồng lo hết. Tôi còn nhớ
lúc con gái được tám tháng, tôi phải đi họp tám ngày, cho con cai
sữa, đều nhờ bà nội cho con bú. Cho nên tình cảm của hai đứa
con với ông bà nội rất sâu đậm. Tôi luôn cảm thấy trong nhà có
người lớn tuổi thật tốt, trong lòng yên tâm. Cha mẹ chồng
tôi lần lượt qua đời cách nhau bốn năm, đối với tôi mà nói, cảm
giác như không còn ai tin cậy nữa. Đặc biệt là lúc tan ca về nhà, vừa
bước vào căn phòng thì trống vắng, lạnh lẽo. Một thời gian tôi
không thể thích ứng được, cứ cảm thấy vừa bước vào phòng, cha chồng
tôi đang ngậm tẩu thuốc ngồi trên giường. Nhưng tôi biết, những tháng
ngày đó sẽ không bao giờ trở lại, khung cảnh ấm áp ấy sẽ không tái hiện
nữa.
Trong
khoảng bốn năm, từ 1984 đến 1988, bốn người: cha mẹ
tôi, cha mẹ chồng lần lượt qua đời. Xin lỗi, cứ mỗi lần
sanh ly tử biệt khiến tôi nếm đủ cảm giác đau khổ không thiết sống
khi mất đi người thân. Mỗi người thân qua đời đều để lại cho tôi rất
nhiều hối tiếc. Điều tôi cảm thấy có chút an ủi đó là, lúc bốn người
qua đời đều không bị bệnh tật giày vò, đầu óc người nào cũng tỉnh táo, không
lú lẫn chút nào. Chỉ là lúc đó tôi chưa học Phật, không hiểu thế nào
là biết trước thời gian. Bốn người có biết trước thời gian hay
không, tôi không thể xác định, nhưng đều ra đi rất an
tường, điều này là thật. Nếu như hỏi bây giờ còn điều gì hối
tiếc không, chính là lúc đó tôi chưa học Phật, không biết thế giới
Tây Phương Cực Lạc, không biết A-di-đà Phật, không biết niệm
Phật trợ niệm đưa tiễn các cụ vãng sanh thế giới Cực Lạc. Điều đáng
vui mừng là tôi đã học Phật, tôi có thể làm chút gì cho người
thân đã mất của mình, cũng coi như một chút báo đáp cho người
thân. Tôi không thể để cha mẹ ruột, cha mẹ chồng uổng công thương yêu
tôi, chăm sóc tôi. Hiện tại cha mẹ tôi đã đến thế giới Cực Lạc, cha
mẹ chồng đi về đâu vẫn còn chưa rõ, tôi nhất định tiếp tục cố
gắng, bảo đảm ba người, cha chồng và hai mẹ chồng vãng sanh thế
giới Cực Lạc. Ngoài ra, con trai duy nhất của họ cũng vãng sanh thế
giới Cực Lạc làm Phật rồi, có thể không giúp cha mẹ đã sanh ra mình
sao? Hơn nữa con trai của họ còn là một người con rất hiếu thảo.
Đến
năm 2000 tôi bị bệnh nặng, bác sĩ chữa trị cho tôi nói rằng phải
đối mặt với cái chết bất cứ lúc nào. Tôi không sợ chết, thậm chí còn
mong mình chết sớm hơn, tại sao vậy? Tôi đang tìm một sự giải
thoát. Tôi không hiểu những chuyện đã xảy ra, tại sao lại thành ra
như vậy? Tôi không thích thế giới tràn đầy giả dối, anh tranh tôi đấu
này, tôi muốn rời khỏi. Vào lúc này bị bệnh nặng, tôi nghĩ cơ
hội đến rồi, không phải chết là hết sao? Chết là hết, vừa chết thì
mọi thứ kết thúc. Tôi không sợ chết, tôi muốn chết, nhưng lại không
chết được. Sự việc không thể nghĩ bàn như vậy đó.
Vào
đúng năm 2000, tôi được nghe Phật pháp, có được bản hội tập kinh Vô
Lượng Thọ và đĩa giảng kinh của lão pháp sư. Vừa nghe liền nghe 20
năm, không thay đổi không chuyển hướng, tôi nhận được lợi ích
rồi. Hiện tại tôi không sợ chết là thật sự không sợ chết, vì tôi
đã hiểu rõ chân tướng của sống chết, vốn không có chết thì còn sợ
chết gì nữa? Chuyện lớn này đã giải quyết rồi, bạn nói xem sao tôi có
thể không tự tại, không vui vẻ cho được!
Bạn nói bạn sợ chết
Thì thế nào cũng chết.
Tôi thật không sợ chết
Thì tôi sẽ không chết.
Sống chết đều là giả,
Bạn còn sợ chi nữa.
Tiết
học hôm nay giao lưu tới đây thôi. Cảm ơn mọi người, A-di-đà Phật!