Responsive Menu
Add more content here...

Luận Câu Xá – Phẩm 1 – Buổi 26

Giảng Ký A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận (A Tỳ Đàm – Vi Diệu Pháp – Duy Thức Pháp Tướng) – Tạo Luận: Tôn giả Thế Thân – Dịch và Chú Thích: Tam tạng Pháp sư Huyền Trang – Bài 26: Phẩm 1 – Phân Biệt Giới – Buổi 26.

Giảng giải: Thầy Thích Thiện Trang

Giảng ngày: 023.01.2025

Phát trực tiếp trên Kênh YouTube Thích Thiện Trang

https://www.youtube.com/watch?v=ur2vmv3wodc

mạng xã hội Facebook, Fanpage Thích Thiện Trang:

https://www.facebook.com/suthaythichthientrang

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Nam Mô A Mi Đà Phật!

          Kính chào toàn thể quý vị đồng tu! Hôm nay là thứ Tư, chúng ta gặp nhau trong loạt bài chia sẻ về bộ giảng A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận, tức là Luận Câu Xá. Nội dung ở đây Thiện Trang xin nhắc lại, chúng ta có ba phần: một phần là phần Kinh tạng từ Kinh A Hàm, Kinh Nikaya; phần thứ hai là tạng Vi Diệu Pháp của bên Nam truyền, tức là A Tỳ Đàm của Nam truyền; và phần thứ ba chính là phần Luận Câu Xá.

          Chúng ta cố gắng học một bộ này để chúng ta đủ hành trang, tư lương tu tập. Cho nên Thiện Trang cố gắng hết sức đưa cả ba bộ này vào, và sắp xếp theo một thứ tự làm sao để quý vị học tới đâu, nghe tới đâu thì [mình] tu hành được tới đó. Đó là mục tiêu của bộ giảng này và hy vọng quý vị đón nghe. Qua 25 bài rồi, hôm nay là bài thứ 26, thì quý vị sẽ được nhiều lợi ích.

          Hôm nay [để] bắt đầu thì Thiện Trang cũng xin vào phần kinh tạng, nhờ lời của Phật để triển khai. Phần thứ nhất là:

Khai Thị Của Đức Phật Về Sự Khó Có Được Để Nghe Pháp

(Trích từ kinh trong Kinh Tăng Nhất A Hàm).

 “Này Tỳ-kheo, Như Lai xuất hiện thế gian được nói là rất khó gặp, thân người khó được, sinh ở trung tâm đất nước cũng khó được, gặp gỡ Thiện tri thức cũng vậy. Nghe pháp được giảng thuyết cũng rất khó. Pháp pháp tương sinh, thật lâu mới có một lần”.

Đoạn này nói cho chúng ta có mấy tầng bậc về sự khó. Đầu tiên, sự khó thứ nhất là đức Phật xuất hiện ở thế gian là khó gặp. Ở trong nhiều bộ kinh như Kinh A Hàm, chúng ta lấy cụ thể là Kinh Du Hành hay là Kinh Đại Bát Niết Bàn, có vị Tôn giả khác nói là đức Như Lai ra đời như hoa ưu đàm, hiếm khi, khó có gặp được [một] lần. Chúng ta là người rất may mắn, tuy chúng ta không gặp Phật trực tiếp, nhưng chúng ta cũng còn giáo pháp của Phật. Sự khó đó là một điều khó rồi, lâu lâu mới có một đức Phật ra đời ở thế gian.

Như ở trong Hiền kiếp này, chúng ta thấy mới đầu có Phật Câu Lưu Tôn, Phật Câu Na Hàm Mâu Ni, Phật Ca Diếp và Phật Thích Ca Văn (tức là đức Phật Thích Ca) cũng không dễ dàng gì chúng ta có được điều đó, cho nên lâu lâu mới có một lần. Trong Kinh A Hàm cũng nói 31 kiếp trước thì mới có hai vị Phật ra đời: là Phật Thi Khí và Phật Tỳ Xá Phù. Còn [thời] Hiền kiếp của chúng ta thì có bốn vị Phật.

Ở đây chúng ta có tầng thứ hai khó là: thân người khó được. Thông thường chúng ta hay nghe nói là: Nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn”. Ở trong bài phỏng vấn Sư Minh Tuệ của Phật tử tại Úc, người ta cũng có hỏi là:“Thân người khó được, giống như là rùa mù ở trên biển mà gặp bọng cây, vậy thì có sợ hay không [để] được thân người?” Rất nhiều người chúng ta nghe câu chuyện này.

Câu chuyện này có cả ở trong Kinh Trường Bộ, Kinh Trung Bộ lẫn Kinh A Hàm đều có, không chỉ một lần mà đức Phật nói rất nhiều lần. Đó là tất cả những chúng sanh ở trong vòng sanh tử, giống như là con rùa ở trên một biển lớn rất rộng. Có một ví dụ thì đức Phật nói là rộng bao nhiêu đó, có ví dụ đức Phật nói là rộng 84.000 do-tuần. 100 năm con rùa nổi lên mặt nước một lần, gặp được bọng cây trôi trên đó, mà đút đầu trúng cái bọng cây đó. Nếu một chúng sanh bình thường ở trong vòng tạo nghiệp, họ tìm lại được thân người sau khi đã mất thân người, cũng giống như rùa mù gặp bọng cây. Cho nên mới nói là thân người khó được.

Như vậy chúng ta rất lo lắng đúng không? Nhưng thật ra đức Phật cũng nói rất nhiều trong bộ kinh: Người có Chánh kiến, ví dụ như trong Kinh Tạp A Hàm, Thiện Trang mới nghe, tất nhiên nghe nhiều rồi nhưng không để ý. Đức Phật nói: Nếu một người có Chánh kiến, thì dù trải qua thời gian trăm ngàn năm, họ cũng không đọa vào đường ác. Cho nên Chánh kiến cực kỳ quan trọng. Chúng ta phải học pháp để có Chánh kiến. Khi có Chánh kiến rồi, chúng ta sẽ không sợ đọa vào các đường ác Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh. Điều thứ hai chúng ta cũng có được là thân người khó được, mà chúng ta đã có được.

[Điều thứ ba khó, đó là]: sinh ở trung tâm đất nước cũng khó được. Trung tâm đất nước, tức là một nơi có văn minh, có Phật pháp lưu truyền. Chứ nếu chúng ta sinh ra ở nơi rừng hoang, nơi khỉ ho cò gáy, thì chắc chắn chúng ta cũng khó gặp được Phật pháp. Cho nên phải sinh ra ở nơi trung tâm đất nước, tức là nơi có nền văn minh, văn hóa tương đối tốt. Đó là tầng thứ ba khó.

Tầng thứ tư [khó] là: gặp gỡThiện tri thức. Thiện tri thức là những người biết Phật pháp, những người có thể dẫn dắt chúng ta tu tập. Tu hành phải có người như vậy. Vậy nếu chúng ta gặp được [Thiện tri thức] thì cũng là một điều khó. Thời nay càng về sau, Thiện tri thức càng ngày càng ít, cho nên [đó] là điều khó thứ tư.

Điều khó thứ năm là: nghe pháp được giảng thuyết cũng rất khó. Chúng ta còn được nghe pháp nữa, như vậy chúng ta đến được tầng thứ năm. Đó là năm điều khó.

Đức Phật nói là pháp pháp tương sinh, thật lâu mới có một lần. Tức là các pháp nương nhau mà sinh ra, cái này sinh cái kia. Cho nên để có nhân duyên có được giáo pháp của đức Phật, được thân người, được ở trung tâm của đất nước, được gặp Thiện tri thức, được nghe pháp, năm điều đó thực sự là khó.

“Tỳ-kheo nên biết, nay Như Lai xuất hiện ở thế gian, ông được nghe chánh pháp, các căn không thiếu để nghe chánh pháp kia, mà nay không ân cần, sau này hối không kịp. Đây là lời giáo giới của Ta”.

Có nghĩa là đức Phật nói bây giờ là chúng ta đã có được hết tất cả những điều đó rồi, các căn của chúng ta không bị đui, mù, câm, điếc để nghe được Chánh pháp, mà không có ân cần tức là không chịu cố gắng, thì sau này hối hận cũng không kịp nữa. Đó là lời giáo giới của đức Phật.

(Kinh Số 7 – Phẩm Chín Chúng Sanh Thứ 44 – Chương Chín Pháp – Kinh Tăng Nhất A Hàm).

Chúng ta thấy mình cũng rất may mắn đúng không? Chúng ta đã vượt qua. Đức Phật nói, bây giờ mình có pháp để nghe, mà mình không chịu nghe, thì sau này mình sẽ hối hận cũng không kịp, không chịu siêng năng tu hành thì hối hận cũng không kịp.

Chúng ta đến đoạn khai thị thứ hai là:

Tùy Thời Nghe Pháp Có Năm Công Đức.

Ở trên nói những điều khó có, thì chúng ta đã có rồi, bây giờ chúng ta tùy thời tức là tuỳ lúc, lúc nào chúng ta tranh thủ nghe pháp được thì có năm công đức.

KINH SỐ 187

          Tôi nghe như vầy, một thời đức phật trú tại vườn (ông) Cấp Cô Độc, rừng cây (Thái tử) Kỳ Đà (ông Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà thì chúng ta quá quen rồi), nước Xá Vệ. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: Tùy thời nghe pháp có năm công đức, tùy thời vâng lãnh không mất thứ lớp. Sao gọi là năm? (Chúng ta đang nghe pháp đây [thì có] được năm công đức, vậy chúng ta được năm công đức gì? Thiện Trang xin phép đánh số cho dễ):

 (1). Điều chưa từng nghe nay được nghe: Đây là điều thứ nhất. Chúng ta nghe được những điều mà xưa nay chưa từng được nghe. Ví dụ chúng ta nghe trong bộ giảng Luận Câu Xá này, xưa nay chúng ta cứ nghĩ rằng để chứng Sơ quả Tu-đà-hoàn thì phải đoạn ba [Hạ] phần Kiết sử trong Năm Hạ phần Kiết sử: Thân kiến, Giới cấm thủ và Nghi. Khó quá! Nhưng thật ra chúng ta chỉ cần nghe được những điều như bốn niềm tin bất hoại: Bất hoại đối với Phật, [bất hoại] đối với Pháp, [bất hoại] đối với Tăng và thành tựu được Thánh giới, hay có chỗ nói là niềm tin bất động đối với Thánh giới. Nếu làm được vậy thì [được] Sơ quả Tu-đà-hoàn, và người đó không đọa vào các đường ác nữa. Đấy là những điều chưa từng nghe, thì đã được nghe. Hôm nay chắc chắn quý vị sẽ được nghe những điều chưa từng được nghe nữa. Đây là công đức thứ nhất.

(2). Điều đã được nghe, tụng, đọc lại: điều thứ hai là mình nghe rồi nhưng mình quên, được tụng đọc lại thì đó là nghe lại. Và sự nghe lại nhắc cho mình nhớ và mở rộng thêm điều cũ đó, cho nên cũng rất tốt.

(3) Kiến giải không tà lệch: nhờ nghe pháp mà kiến giải không tà lệch. Quý vị thấy Sư Minh Tuệ cũng khuyên chúng ta: là Phật tử nên nghe kinh của Phật. Kinh Phật bây giờ còn, hãy ráng nghe. Và quý vị thấy những người không nghe kinh thì thông thường kiến giải sẽ bị tà lệch.

Ví dụ như có rất nhiều đồng tu, Thiện Trang xin nói thẳng luôn là đồng tu Tịnh Độ chẳng hạn, có rất nhiều kiến giải không chính xác so với kinh Phật, đó là do họ không có nghe kinh. Nên Sư Minh Tuệ đã thầm thị hiện, đó là nghe hết Kinh A Hàm, Kinh Nikaya, Kinh Đại Bảo Tích, kinh nào đưa cho Sư là Sư nghe hết, Sư nghe như vậy. Cho nên tu tập không cần nhiều, thật ra chỉ cần nương theo Kinh A Hàm, Kinh Nikaya là đủ rồi. Thậm chí quý vị không cần nương theo cả hai bộ Kinh A Hàm, Kinh Nikaya, một trong hai bộ loại đó thôi là quý vị tu cũng có lợi rất lớn. Thiện Trang thấy rất nhiều kiến thức căn bản của Phật pháp đều được nói trong hai bộ đó.

Còn bây giờ chúng ta không học, mà chúng ta cứ nghe những người sau này giảng, người ta không có đọc kinh đó, người ta giảng tào lao, thật sự là rất tào lao. Thiện Trang nói cho quý vị biết là như vậy. Đó là một điều đáng tiếc! Và mình tưởng người ta giảng đúng, ví dụ như Chánh kiến là gì, rồi Chánh tư duy là gì, thì người ta cũng giảng ầm ầm. Nhưng người ta quên mất trong kinh đức Phật có nói [những điều đó] rồi. Người ta giảng một hồi, họ suy luận theo ý của họ, thì sai đi, kiến giải bị tà lệch. Cho nên nghe pháp mà nghe đúng Phật pháp thì rất tốt, không bị kiến giải tà lệch, hay kiến giải không tà lệch, đó là điều thứ ba.

(4) Không có hồ nghi: tức là không có nghi ngờ. Chữ #hồ là con hồ ly, con hồ ly là con cáo rừng, nó thường nghi ngờ nên gọi là hồ nghi. Ở đây ý nói nếu mình nghe pháp và thường xuyên học kinh điển, thì dứt sự hoài nghi. Điều này rất quan trọng. Vì đây là những điều mà chúng ta muốn vào Sơ quả, thì chúng ta phải dứt nghi. Làm gì thì làm, phải dứt được Kiết sử Nghi, ngay cả tiêu chuẩn thấp hơn là niềm tin bất hoại với ba điều hay bốn điều thì cũng là không nghi. Mà muốn không nghi thì quý vị phải nghe chánh kinh. Còn nếu quý vị không nghe những người trích dẫn từ chánh kinh, mà quý vị nghe người ta giảng một hồi, thầy này giảng một đường, thầy kia giảng một đường, là quý vị nghi thêm.

Cho nên Thiện Trang có nói, may mắn là sau này Thiện Trang coi trong kinh, thấy điều này Phật giảng trong kinh hết rồi. Những kiến thức căn bản của Phật pháp thì Phật đều nói ở trong kinh, chỉ cần coi trong đó là có hết, cho nên mình dứt được Nghi. Đồng thời những vấn đề nào mình còn chưa hiểu, mình còn phân vân, thì chỉ cần nghe trong đó là hiểu hết và dứt được nghi. Cho nên là biết được rồi thì sẽ không nghi nữa. [Đó là điều] thứ tư rồi.

(5) Hiểu nghĩa sâu xa: tức là hiểu ý nghĩa được sâu xa, điều này rõ ràng.

Tùy thời nghe Pháp có năm công đức, cho nên, này các Tỳ-kheo, hãy tìm cầu phương tiện tùy thời nghe Pháp. Các Tỳ-kheo, hãy học điều này như vậy”.

Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

(Kinh Số 1 – Phẩm Thính Pháp Thứ 36 – Chương Năm Pháp – Kinh Tăng Nhất A Hàm).

Cho nên là ráng nha! Đức Phật nói là tùy thời nghe pháp có năm công đức, cho nên các Tỳ-kheo tức là nói chúng ta đó, hãy tìm cầu phương tiện tức là làm mọi cách để tùy thời (tùy lúc), bất cứ lúc nào cũng nghe pháp. Quý vị nghe pháp nhiều thì tự nhiên quý vị tu được.

Thời nay thì có tư tưởng ngược đời, đó là thôi, nghe làm chi cho nhiều, nghe nhiều thì Tà kiến, thế này thế kia… Trong khi đó đức Phật luôn luôn khuyên là đa văn, luôn luôn khuyên học pháp, nên nhớ như vậy! Chính mình không nghe nên dễ bị người ta dẫn dụ, dẫn dắt mình đi vào con đường nào đó. Còn nếu mình nghe hết trong kinh rồi, thì đố ai dẫn dụ quý vị đi sai đường được.

Thiện Trang thấy tuy thời gian Thiện Trang chia sẻ không nhiều, hôm nay mới bài 26 thôi, nhưng quý vị đồng tu nào mà chịu khó nghe, thì dường như mình bắt đầu xây dựng được Chánh kiến, và rất khó để có thể lôi quý vị đi đâu trật đường Chánh đạo. Cho nên rất là tuyệt vời! Thực ra mình nghe không nhiều lắm, nhưng chúng ta toàn là trích dẫn từ lời kinh, lời Phật, chứ không phải lời của Thiện Trang, cho nên quý vị nghe liền có lợi ích. Chúng ta nghe mấy chục bài thôi là chúng ta đã có Chánh kiến rồi. Lúc đó ai dẫn dắt lung tung lang tang, thì quý vị cũng không bị xê dịch, niềm tin của mình sẽ vững vàng. Cho nên là ráng nghe, hãy cố tranh thủ mọi phương diện, lúc nào nghe được thì nghe, đó là tư duy về pháp.

Đấy là hai điều nói về pháp hành cho chúng ta. Hôm nay Thiện Trang giới thiệu cho quý vị một điều nữa là:

Chăm Sóc Người Bệnh Cũng Như Chăm Sóc Đức Phật Không Khác Vậy.

Đây là lời của đức Phật luôn, đây là một bộ kinh rất dài, Thiện Trang chỉ trích một đoạn thôi.

….

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: “Vì mục đích mà các ngươi xuất gia học đạo, cùng một Thầy, hòa một như nước với sữa, nhưng lại không chăm sóc lẫn nhau. Từ nay về sau hãy chăm sóc lẫn nhau. Nếu Tỳ-kheo bệnh nào không có đệ tử thì trong chúng hãy cử người theo thứ tự chăm sóc người bệnh. Vì sao? Ngoài đây ra, Ta không thấy nơi nào mà sự bố thí có phước hơn chăm sóc người bệnh. Chăm sóc người bệnh cũng như chăm sóc Ta không khác vậy.”

Nhân duyên của đoạn này là có một vị Tỳ-kheo bị bệnh mà không có ai chăm sóc cả. Từ đó đức Phật mới tới và quở trách, Ngài thuyết một bài pháp khá dài. Đoạn này là đoạn gần cuối, đức Phật nói là vì sao lại không chăm sóc người bệnh? Từ nay trở đi nhớ là phải chăm sóc lẫn nhau, và quý vị nhớ câu này: ‘chăm sóc người bệnh cũng như chăm sóc Ta không khác vậy’. Tức là chăm sóc người bệnh, phước bố thí đó cũng giống như là chăm sóc đức Phật vậy. Người bệnh này là người tu hành, ở đây nói các vị Tỳ-kheo.

Quý vị thấy người tại gia cũng vậy, quý vị nhớ nương nhau, chăm sóc người bệnh có phước rất lớn. ‘Ta không thấy nơi nào mà sự bố thí có phước hơn chăm sóc người bệnh’, nhớ nha! Chứ không, nhiều khi tu hành, nhiều người không quan tâm chăm sóc người bệnh khác. Chăm sóc người bệnh cũng như chăm sóc Ta không khác vậy, đây là pháp tu rất cơ bản.

Rồi đức Thế Tôn liền nói kệ rằng:

Nếu có cúng dường Ta

Cùng chư Phật quá khứ;

Phước đức thí cho Ta,

Như nuôi bệnh không khác.

 Quý vị thấy không? Cúng dường đức Thế Tôn cùng chư Phật quá khứ, phước đức thí cho Ta, như nuôi bệnh không khác. Như vậy là nuôi [người] bệnh phước lớn lắm đó. Cho nên tại sao những người làm Bác sĩ, Y tá, mấy ngành nghề đó mà làm đúng, thì họ có sức khỏe lắm. Quả báo hiện đời là có sức khỏe, đó là phước rất lớn, chúng ta phải hiểu được điều đó.

 Đức Thế Tôn sau khi dạy những lời này xong, bảo ngài A Nan: “Từ nay về sau, các Tỳ-kheo hãy chăm sóc lẫn nhau. Nếu có Tỳ-kheo nào biết mà không làm sẽ căn cứ vào pháp luật mà xử trị. Đây là những lời giáo giới của Ta”. (Đây là lời giáo giới của Phật, là ở trong trong Tăng đoàn phải chăm sóc lẫn nhau, vì đi xuất gia rồi, không có người thân chăm sóc được nữa).

Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

(Kinh Số 7 – Phẩm Chín Chúng Sanh Thứ 44 – Chương Chín Pháp – Kinh Tăng Nhất A Hàm).

Đó là một pháp hành mà chúng ta cũng nên [hành theo], chứ không, tu riết rồi cuối cùng cũng xả ly thế gian, không quan tâm gì hết. Bệnh thì đức Phật nói phải tùy thời mà uống thuốc. Không uống thuốc, không chịu [chữa bệnh] thì bệnh sẽ nặng hơn v.v… Chúng ta đã học điều đó rồi. Cho nên là không rơi vào Tà kiến, nói bệnh là theo nhân quả, có chữa cũng chết, vì hết mạng rồi thì chắc chắn chết. Nếu không chữa thì vẫn sống được, vì mạng chưa hết.

Đó là một Tà kiến nha quý vị. Đức Phật nói rõ ràng, dẫn trong kinh rõ ràng, là chữa bệnh được thì mới hết. Còn tất nhiên có những người hết mạng rồi, thì có chữa cũng chết, đó là trường hợp bình thường.

Chúng ta nên nhớ, học nhân quả là gì? Nhân cộng duyên ra quả. Bệnh mình chưa đáng chết, nhưng do mình không biết giữ gìn, do mình không biết uống thuốc, do mình không chữa bệnh, thì cuối cùng chết sớm. Đó là trong kinh đức Phật có nói, cho nên phải hiểu, chứ đừng học nhân quả theo kiểu Tà kiến. Tà kiến là cứ nghĩ: số mạng hết rồi thì sẽ chết. Không phải! Số mạng chưa chắc hết, nhưng do duyên hết mà chết. Duyên gì? Duyên không chữa bệnh. Cho nên là đừng có Tà kiến, hãy học kinh điển cho rõ ràng, trong kinh đều có những câu chuyện như vậy.

Tiếp theo, Thiện Trang xin giới thiệu với quý vị một trong nhiều cách để vào Sơ quả Tu-đà-hoàn. Hôm nay là cách thứ tư. Quý vị nhớ, có ba cách: Cách thứ nhất là phá ba Kiết sử: Thân kiến, Giới cấm thủ và Nghi. Cách thứ hai là bất hoại tịnh đối với Phật, bất hoại tịnh đối với Pháp, bất hoại tịnh đối với Tăng, và thành tựu được Thánh giới. Cách thứ ba là thường quán Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã. Đó là ba cách để vào Sơ quả Tu-đà-hoàn. Có nhiều cách lắm, bữa nay, giới thiệu [cho] quý vị cách thứ tư, cũng trích từ kinh.

Một Trong Nhiều Cách Để Vào Sơ Quả Tu-Đà-Hoàn (4)

Tôi nghe như vầy: Một thời, Tôn giả Xá Lợi Phất cùng 500 Tỳ-kheo ở trong vườn (ông) Cấp Cô Độc, rừng cây (Thái tử) Kỳ Đà, tại nước Xá Vệ.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo đến chỗ ngài Xá Lợi Phất, thăm hỏi ngài rồi ngồi qua một bên. Lúc ấy, các Tỳ-kheo bạch Xá Lợi Phất: “Tỳ-kheo thành tựu về giới nên tu những pháp gì?” Tỳ-kheo đã thành tựu về giới rồi thì nên tu những pháp gì? Cho nên đây là nói thành tựu về giới quan trọng. Không có thành tựu về giới thì tu hơi khó.

Ngài Xá Lợi Phất đáp: “Tỳ-kheo giới thành tựu (tức là thành tựu về giới) nên tư duy về năm Thủ uẩn là Vô thường, là Khổ, là Não, là nhiều đáng sợ, cũng nên tư duy về Khổ, Không, Vô ngã. Sao gọi là năm? Đó là Sắc uẩn, Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn, Thức uẩn. Khi Tỳ-kheo giới thành tựu tư duy năm uẩn này liền đắc quả Tu-đà-hoàn”.

Quý vị nghe cho kỹ nha, đây là một cách để đắc quả Tu-đà-hoàn. Đó là phải giữ giới, thành tựu giới. Điều nào cũng nói giới trước. Rồi tư duy về năm Thủ uẩn. Năm Thủ uẩn thì chúng ta biết [là]: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Những điều này chúng ta đang học, rất quan trọng, [là] những kiến thức cơ bản. Mà tư duy thế nào? Phải [tư duy] là Vô thường, là Khổ, là Não (Não là khó chịu, bứt rứt), là nhiều đáng sợ, cũng tư duy về Khổ, Không, Vô ngã. Tỳ-kheo thành tựu giới rồi mà làm như vậy thì liền đắc Tu-đà-hoàn.

Cho nên quý vị thấy để vào Sơ quả Tu-đà-hoàn có khó không? Nếu khó thì chúng ta thấy đâu có nói như vậy đúng không? Cho nên kiến thức cơ bản về Ngũ uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức là quan trọng. Và chúng ta phải quán Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã, Não (Não là khó chịu), và nhiều đáng sợ. Nói tóm lại là chỉ cần [quán] Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã. Và năm Thủ uẩn là: Sắc (thân chúng ta), Thọ, Tưởng, Hành, Thức, những điều này chúng ta đã học ở bài trước, quý vị có thể coi lại. Chúng ta thấy toàn là kiến thức quan trọng, kiến thức cơ bản. Quý vị chỉ cần nắm được như vậy, tu được như vậy, giữ giới được thôi, thì liền đắc được Sơ quả Tu-đà-hoàn.

Cho nên thời nay chúng ta tu điều gì? Học một hồi, mà không học Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã, không học về Ngũ uẩn, mà đòi đắc Sơ quả Tu-đà-hoàn, thì chúng ta lại quay quay đi đâu? Cho nên chúng ta muốn đi vào cách khác thì làm sao được. Đấy là một cách rất dễ đúng không ạ? Cho nên hôm nay là biết thêm cách nữa để đắc Tu-đà-hoàn rồi nha. Bữa giờ chúng ta học Luận Câu Xá, đang học về Ngũ uẩn, và chúng ta suốt ngày học Khổ, Không, [Vô thường], Vô ngã, suốt ngày nói đi nói lại. Quý vị cứ nắm [những điều này], suốt ngày nhớ Khổ, Không, Vô Thường, Vô ngã là được rồi.

Hôm bữa hình như cách thứ ba Thiện Trang chỉ, không phải là cách Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã, mà Thiện Trang nhớ là cách dùng Ngũ căn: Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ để vào Sơ quả Tu-đà-hoàn. Như vậy bữa nay [nữa là] bốn cách. Cách này là quán Ngũ uẩn là Khổ, Không, Vô Thường, Vô ngã. Tư duy về Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã, rồi thành tựu về giới, thì chắc chắn là sẽ đắc quả Tu-đà-hoàn. Như vậy ráng giữ giới.

Tỳ-kheo bạch ngài Xá Lợi Phất: “Tỳ-kheo Tu-đà-hoàn phải tư duy những pháp gì?” Tức là Tỳ-kheo đã đắc Tu-đà-hoàn rồi, thì phải tư duy những pháp gì.

Ngài Xá Lợi Phất đáp: “Tỳ-kheo Tu-đà-hoàn cũng nên tư duy về năm Thủ uẩn này: là Khổ, là Não, là nhiều đáng sợ, cũng nên tư duy về Khổ, Không, Vô ngã. Các Hiền giả nên biết, nếu Tỳ-kheo Tu-đà-hoàn tư duy về năm Thủ uẩn liền thành quả Tư-đà-hàm”. Tóm lại cũng lại tu pháp đó nữa, cũng vậy thôi. Nhưng nếu là Tu-đà-hoàn rồi, mà tu pháp đó nữa thì nâng cấp lên thành Tư-đà-hàm (Nhị quả).

Tỳ-kheo bạch ngài Xá Lợi Phất: “Tỳ-kheo Tư-đà-hàm phải tư duy những pháp gì?”

Ngài Xá Lợi Phất đáp: “Tỳ-kheo Tư-đà-hàm cũng nên tư duy về năm Thủ uẩn này: là Khổ, là Não, là nhiều đáng sợ, cũng nên tư duy về Khổ, Không, Vô ngã. Bấy giờ, Tỳ-kheo Tư-đà-hoàn tư duy về năm Thủ uẩn này liền chứng quả A-na-hàm”.

Tóm lại lên Nhị quả cũng tu như vậy thôi, để lên Tam quả. Quý vị thấy, pháp tu cơ bản là biết đời là khổ, thân này là khổ, thân này là nhiều đáng sợ. Vì sao khổ? Có nhiều người nói: “Học Phật bi quan quá, học suốt ngày nói khổ, khổ, khổ hoài”. Thật ra đạo Phật có nói bi quan [không]? Đức Phật không nói như vậy. Đức Phật nói thế này: “Ở đời có khổ lẫn có vui”, phải nói vậy. Nhưng nỗi khổ nhiều hơn niềm vui, và nỗi khổ là rốt ráo, còn niềm vui thì ngắn tạm. Chứ nói khổ không thôi thì không đúng.

Rõ ràng ở đời quý vị lâu lâu cũng có vui mà. Đang ăn là vui, đúng không? Đang đói [mà được] ăn ngon [thì] vui. Đang đi làm tới tháng nhận lương [thì] vui, đang buồn ngủ được ngủ [thì] vui. Rồi đang gì đó v.v… rất nhiều điều vui. Nhưng niềm vui đó không cứu cánh, không lâu dài. Ví dụ ăn một hồi thì thành khổ, vì mệt, no quá không ăn nổi được nữa. Đi làm mình nhận tiền nhưng muốn có tiền thì cũng mệt do làm nhiều. Rồi có một nỗi khổ là khổ sanh, già, bệnh, chết. Nỗi khổ già, bệnh, chết không thể nào thoát được.

Trong Kinh Tạp A Hàm, đức Phật đưa ra một ví dụ: Giống như hai mẹ con đó, thương yêu nhau lắm, nhưng đến khi con bệnh thì mẹ cũng không có cách nào bệnh thay cho con:“Này con, mẹ có thể chịu bệnh thay con”. Không được! Người con cũng vậy, không thể nào chịu bệnh thay mẹ. Rồi khi chết cũng vậy, người mẹ không thể nào chết thay cho con, và người con cũng không thể nào chết thay cho mẹ. Cho nên rốt cuộc rồi cũng quy về khổ. Khổ là vậy đó.

Rồi khổ đó là do gì? [Do] Không. Không là gì? Rồi mọi thứ sẽ trở về không, chứ còn hoài thì mình cần gì tu nữa. Đức Phật nói nếu thế gian toàn niềm vui thì cần gì đức Như Lai ra đời, hoặc thế gian toàn nỗi khổ thì đức Như lai ra đời để làm gì? Mà [cuộc đời] có khổ, có vui, nên đức Như Lai mới ra đời.

Quý vị thấy như ở Địa ngục, đức Phật có xuống [độ họ] được đâu. Họ khổ quá, [khổ] suốt ngày, họ đâu có thời gian để nghe Phật pháp được. Nhưng người ở dưới Địa ngục tu vẫn khổ mà. Cho nên muốn thoát khổ là gì? Chúng ta phải có ở cõi Người, vừa khổ vừa vui. Và tranh thủ thời gian đó để tu, để chuyển nỗi khổ thành nhiều niềm vui hơn. Ở đời hiện tại được an vui, đời tương lai được an vui, và rốt ráo là giải thoát, đó là ra khỏi sanh tử, được vui rốt ráo. Đó là lý do mà đức Như Lai (đức Phật) ra đời ở thế gian. Chúng ta phải hiểu rõ ràng, chứ không hiểu, nói một hồi đạo Phật là khổ, khổ, khổ hoài.

Rồi Vô ngã là gì? Vô ngã có nghĩa là không làm chủ được. Đức Phật lấy ví dụ trong kinh thế này: Giống như một vị vua, [như] vua Ba Tư Nặc, vua Tần Bà Sa La, hay vua A Xà Thế v.v… những vị vua đó có quyền hành rất lớn ở trong đất nước của họ. Vua muốn trục xuất ai [là] trục xuất, muốn đuổi ai là đuổi, muốn cho ai cái gì là cho. Bởi vì [có] quyền hành, cho nên ông vua đó là được quyền gì? Là có ngã trong đất nước đó. Nhưng có một cái Vô ngã, đó là ổng không làm chủ được ổng. Đến ngày nào đó ổng cũng già, ổng không làm chủ được. Đến ngày nào ổng cũng chết, ổng không làm chủ được. Đó gọi là không làm chủ được, gọi là không phải của ta, hay chính là Vô ngã. Định nghĩa như vậy rất rõ ràng.

Vì chúng ta sống ở đời, chúng ta biết thế gian này rõ ràng không thuộc về ta một cách rốt ráo. Chẳng qua ai có phước lớn thì ép thiên hạ phải theo mình. Thiên hạ phải theo mình vì mình có phước lớn, nhưng phước đó cũng có hạn chế. Đến lúc nào đó rồi phước đó cũng hết, mình cũng chết, mình cũng buông. Quý vị thấy không? Có ông nào lãnh đạo đất nước nào mà lãnh đạo được lâu dài đâu. Dù có là đại đế, dù có cỡ nào chăng nữa, thì cũng chôn vùi trong lịch sử mà thôi. Cho nên đó chính là Vô ngã, đó chính là Vô thường, đó chính là Khổ, là Không.

Chúng ta nhờ đó quán sát được thân thể chúng ta, [quán sát] tâm của chúng ta. Đó là Thọ, Tưởng, Hành, Thức, bốn điều đó thuộc về tâm, là Danh pháp. Còn Sắc pháp tức là thân thể vật chất này. Tất cả năm điều đó gọi là Ngũ uẩn, và đều là Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã.

Cứ hằng ngày mà quý vị nghĩ được như vậy, thì dần dần quý vị đắc quả Tu-đà-hoàn. Chắc chắn! Bởi vì sao? Quý vị thường nghĩ như vậy thì quý vị sẽ giữ giới, quý vị sẽ tu tập, vì quý vị biết đời không như là mơ. Đời rồi ngày nào đó mình sẽ tạm biệt nó thôi, cho nên không có cách nào hết. Quý vị cứ nghe như vậy, nghe tới nghe lui, rồi dần dần quý vị đắc được quả Tu-đà-hoàn. [Đắc] Tu-đà-hoàn thì quý vị không đọa ác đạo nữa. Nếu là Tu-đà-hoàn tiêu chuẩn thì quý vị còn tối đa bảy lần ở trong vòng sanh tử thôi, rồi quý vị đắc được Niết-Bàn, ra khỏi sanh tử, tức là mình đã đi được trên con đường bất tử.

Còn nếu không thì chúng ta cứ vòng vòng trong đó, còn khổ hoài. Hết cõi Trời thì rớt xuống cõi Người, rồi Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh. Chúng ta cứ đi vòng vòng trong đó, khổ lắm. Đó là rốt ráo khổ. Còn nếu chúng ta muốn cứu cánh vui thì phải từ A-la-hán trở lên. Mà muốn được như vậy thì phải ráng tu những pháp đơn giản. Tam quả A-na-hàm vẫn tu những pháp này, vẫn là quán Ngũ uẩn là Khổ, là Không, là Vô thường, là Vô ngã, là Não, là nhiều đáng sợ. Cứ nghe hoài như vậy, nói hoài như vậy, thì quý vị sẽ trồng được căn lành. Và trồng được căn lành rồi thì chúc mừng quý vị, ngày nào đó quý vị sẽ đắc quả, sớm [hay] muộn thôi.

Như vậy tới Tam quả A-na-hàm thì tu [pháp] gì đây?

Các Tỳ-kheo bạch ngài Xá Lợi Phất: “Tỳ-kheo A-na-hàm phải tư duy những pháp gì?”

Ngài Xá Lợi Phất đáp: “Tỳ-kheo A-na-hàm cũng nên tư duy về năm Thủ uẩn này: là Khổ, là Não, là nhiều đáng sợ, cũng nên tư duy về Khổ, Không, Vô ngã. Bấy giờ, Tỳ-kheo A-na-hàm tư duy về năm Thủ uẩn này liền chứng quả A-la-hán”.

A-na-hàm vẫn là tu pháp đó. Cho nên quý vị thấy rõ ràng trong thời gian qua, Thiện Trang chia sẻ nhiều nhất vẫn là Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã thôi. Tại vì đức Phật nói vậy mà. Pháp này là pháp căn bản, pháp quan trọng nhất. Nếu không có pháp này thì chúng ta không thể tu các pháp khác. Bởi vì trong Tứ thánh đế chúng ta đã học qua, tu tập phải theo thứ tự. Đầu tiên phải là quán về Khổ đế trước, rồi mới tới Tập đế, rồi mới Diệt đế, rồi Đạo đế, theo thứ tự như vậy. Và chúng ta đang học rõ ràng như vậy. Cho nên không có tốt nghiệp đề mục Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã này thì không thành công đâu.

Các Tỳ-kheo hỏi: “Tỳ-kheo A-la-hán nên tư duy những pháp gì?”. Bây giờ A-la-hán tu pháp gì đây?

Ngài Xá Lợi Phất đáp: “Điều các Thầy hỏi đã vượt quá rồi. Tỳ-kheo A-la-hán, việc cần làm đã xong, không còn tạo nghiệp, tâm được giải thoát khỏi Hữu lậu, không còn hướng đến năm đường trong biển sanh tử, lại không còn tái sinh, không còn tạo tác gì nữa. Cho nên, các Hiền giả, Tỳ-kheo trì giới, bậc Tu-đà-hoàn, bậc Tư-đà-hàm, bậc A-na-hàm hãy tư duy về năm Thủ uẩn này. Các Tỳ-kheo, hãy học điều này như vậy”.

Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì ngài Xá Lợi Phất dạy, hoan hỷ phụng hành.

(Kinh Số 1 – Phẩm Đẳng Kiến Thứ 34 – Kinh Tăng Nhất A Hàm).

Quý vị thấy Kinh Tăng Nhất A Hàm [có] rất nhiều điều hay. Ở đây muốn nói lại là, theo thói quen ta hỏi luôn A-la-hán tu [pháp] gì? A-la-hán xong rồi, thì còn gì phải tu nữa. Tại vì việc [cần] làm đã xong, không còn tạo nghiệp, tâm được giải thoát khỏi Hữu lậu rồi, không còn hướng đến năm đường trong biển sanh tử. Cho nên là đâu cần nữa đâu, chúng ta cứ thế mà tư duy thôi.

Ở đây nói là không còn hướng đến năm đường trong biển sanh tử, cho nên quý vị yên tâm. Ở đây không nói sáu đường mà nói năm đường thôi, năm đường là gồm có: Trời, Người, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh là năm đường. Nếu nói thêm một đường nữa là đường A-tu-la, thì là sáu đường. Chúng ta thấy ở đây chỉ nói năm đường, không còn đường nào nữa, A-la-hán là xong rồi. Như vậy ở đây là Phẩm Đẳng Kiến Thứ 34 của Kinh Tăng Nhất A Hàm.

Như vậy chúng ta thấy pháp tu quan trọng là gì? Là phải nhớ thân thể chúng ta, tức là năm Thủ uẩn. Thông thường gọi là “Uẩn”, năm uẩn, mà thêm chữ “Thủ uẩn”. Thủ là gì? Thủ là chấp giữ, mình chấp giữ nó. Chứ còn thực tế thân này là bình thường. Năm uẩn thì chúng sanh nào cũng có, A-la-hán vẫn còn năm uẩn đó thôi. Nhưng chúng sanh chúng ta là chấp giữ, chấp vào đó cho là mình, chấp vào đó cho là ngã, cho nên mới có đường sanh tử. Khi nào mình thoát được ra là được, cho nên chữ ‘Thủ’ là vậy. Thủ là chấp trước, là lấy, cầm, là chấp giữ.

Cho nên hãy cố gắng! Mình không phải là bỏ thân này, giống như mấy vị Tỳ-kheo trong Kinh Tạp A Hàm nói, là có 60 vị Tỳ-kheo, sau khi đức Phật dạy pháp Bất tịnh quán thì thấy thân thể này chán quá, cho nên cuối cùng nhờ vị kia giết mình luôn. Đó là một sai lầm. Không phải như vậy, mà chúng ta vẫn tận dụng thân thể này để tu hành.

Còn khi mình tu hành, thì mình cố gắng bỏ, bỏ tức là đừng nghĩ thân này là ta. Vì đây không phải là ta, từ vô lượng kiếp tới giờ ta có vô số thân. Đời này cũng như một thân thôi, do nhiều yếu tố giả duyên mà hợp thành. Ví dụ chúng ta do tinh cha, huyết mẹ, rồi chúng ta có duyên đầu thai vô, rồi được nuôi lớn đến bây giờ. Giống như Thiện Trang sinh 1983, năm nay là 2025, quý vị tự tính ra coi [Thiện Trang] bao nhiêu năm trên đời này. Đó là duyên. Nếu trước 1983, thôi trừ luôn đi 10 tháng mang thai, cho năm 1982, như vậy từ năm 1981 về trước Thiện Trang có một thân Ngũ uẩn khác. Và vô lượng đời rồi, cứ như vậy, quay vòng, nỗi khổ rất nhiều.

Nếu chúng ta không có chấp giữ, đừng cho thân này là ta, đừng cho những suy nghĩ này, những cảm nhận là ta. Chỉ cần như vậy thôi là quý vị phá được Thân kiến. Quán thân này là Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã, tức là phá Thân kiến đấy. Thực tế là [điều này] thuộc về phá Thân kiến. Thân kiến là gì chúng ta đã giảng rồi, gồm có Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Chúng ta đã giảng nhiều, lâu lâu sẽ giảng lại, nhưng giờ nói sơ lược vậy thôi.

Còn bây giờ Thiện Trang xin chia sẻ về Giới luật một chút. Thật ra không phải điều gì ghê gớm, đề mục ở đây gọi là:

Phá Giới Bị Quỷ Ám

Tức là phá giới thì bị quỷ ám. Điều này là trong kinh, Thiện Trang muốn giới thiệu [cho] quý vị, để nhiều người họ nói hình như mình đề xướng hơi lố, là tại sao nói ma quỷ, rồi [đem] Giới luật ra hù dọa, v.v… Thật ra đây chính là thời Phật, là có bộ kinh nói về người phá giới bị quỷ ám. Chúng ta coi thử bộ kinh này nói gì.

Tôi nghe như vầy: Một thời, đức Phật ở trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ, có con trai của Ưu-bà-di thọ trai tám chi, sau đó phạm giới, liền bị quỷ thần ám. Lúc ấy, Ưu-bà-di liền nói kệ: (ở đây có một người con trai của Ưu-bà-di thọ trai tám chi, tức là thọ Bát quan trai. Nhưng sau đó phạm giới nên bị quỷ thần ám. Lúc đó vị Ưu-bà-di đó liền nói kệ. Câu chuyện này thì quý vị coi “Ưu-bà-di tử”, tiếng Pali, [là] con trai của một Ưu-bà-di tên là Sānu. Chút nữa Thiện Trang sẽ quay lại câu chuyện này. Bây giờ đang nói theo kinh. Ưu-bà-di, tức là bà mẹ, nói kệ với con quỷ đó).

Ngày mười bốn, mười lăm,

Mồng tám mỗi phần tháng;

Tháng điềm hiện Thần thông,

Tám chi khéo chánh thọ.

Nơi trai giới thọ trì,

Không bị quỷ thần ám.

Xưa tôi hỏi mấy lần,

Thế Tôn nói điều này.

Đây là một đoạn kệ trong kinh nói rất rõ về tầm quan trọng của tu giới, giới này là giới Bát quan trai. Tức là ngày 14, ngày rằm, mùng 8 mỗi phần tháng (thật ra tháng hồi xưa ở Ấn Độ, chỉ có nửa tháng thôi, cho nên có ngày 14, 15 và ngày mùng 8) thọ giới Bát quan trai. Đối với người Cư sĩ thì phải tuân thủ như thế, cho nên là họ như thế. Và còn thêm nữa.

“Tháng điềm hiện thần thông”: điều này gọi là Tháng thần biến. Tháng thần biến là ba tháng: tháng Giêng, tháng Năm và tháng Chín, cũng phải thọ Bát quan trai nữa. Đây là theo Kinh Bồ Tát Giới, yêu cầu cao hơn, là tháng Năm, tháng Giêng và tháng Chín, ba tháng này do vua trời Tứ Thiên Vương đi xuống tuần tra nhân gian, cho nên là ráng mà thọ giới, tu Bát quan trai. Quý vị thấy tu như vậy mới được, mà thời nay có ai tu như vậy không? Cư sĩ nào tu được một tháng sáu ngày trai, tức là 14, 15, mồng 8, mà nhân đôi thì thành ra là còn hai ngày cuối tháng, và ngày 23. Tại chúng ta thọ tháng 30 ngày, còn tháng Ấn Độ là Hắc nguyệt và Bạch nguyệt, chia đôi ra. Cho nên đó là tu như vậy. Rồi ba tháng Thần biến nữa: là tháng Giêng, tháng Năm và tháng Chín. Như vậy là một năm có [rất nhiều ngày] tu Bát quan trai. Còn bây giờ mình tu không có bao nhiêu hết, cho nên mình không đắc quả là đúng rồi, không có gì lạ.

Ở đây nói rõ ràng, đây là lời trong kinh, ngày 14, 15, ngày mồng 8 mỗi phần tháng. “Tháng điềm hiện thần thông”: tức là Tháng thần biến. “Tám chi khéo chánh thọ”: tức là khéo mà thọ cho đúng về Tám chi, tức là Bát quan trai. ‘Nơi trai giới thọ trì, Không bị quỷ thần ám. Xưa tôi hỏi mấy lần, Thế Tôn nói điều này’.

Tức là bà này nói sao con bả lại bị quỷ ám. Trong khi đó hồi xưa, bả hỏi mấy lần rồi, đức Thế Tôn nói rõ ràng, nếu thọ giới Bát quan trai thì không bị quỷ thần ám, vậy sao con trai của bả bị quỷ thần ám. Ý là nói vậy. Quý vị thấy bí quyết để không bị quỷ thần ám là hãy thọ Bát quan trai, trong đoạn kinh này nói rõ như vậy. Cho nên có công đức hiệu quả như vậy đó. Cho nên người nào mà hay bị ma nhập gì đó, thì ráng biểu họ thọ Bát quan trai. Đây là trong kinh nói. Nhưng bà này thắc mắc là tại sao con của bả bị quỷ thần ám? Vì đoạn trên nói rồi, là do sau đó [con bả] phạm giới, thọ rồi mà phạm cho nên bị quỷ ám. Cho nên là những người bị quỷ ám là gì? Là giữ giới không được, nhớ nha, [đây] rõ ràng ở trong kinh đó. Đây là kinh tạng nha, quý thấy kinh này có câu chuyện trích tên là Sānu, bên Kinh Pali cũng có, chứ không phải Kinh A Hàm không [thôi].

Chúng ta coi thử con quỷ đáp làm sao.

Lúc ấy, Quỷ kia liền nói kệ (con quỷ cũng từ bi, nó cũng nói kệ lại):

Ngày mười bốn, mười lăm,

Và mồng tám mỗi tháng;

Ứng tháng thần túc tốt,

Tu tám chi chánh thọ.

Con quỷ cũng nói lại là ngày 14, 15 và mùng tám mỗi tháng, rồi vào Tháng thần túc (là Tháng thần biến), thì tu Tám chi chánh thọ ( tức là Bát quan Trai giới).

Sống trai giới thanh tịnh,

Khéo giữ gìn giới đức;

Không bị quỷ trêu đùa,

Lành thay, nghe từ Phật.

Tức là nó cũng khẳng định rằng, đúng rồi đó, tu như vậy là yên tâm, quỷ không có trêu đùa đâu. Đức Phật nói mà, con quỷ cũng nói vậy.

Theo những lời bà nói,

Ta sẽ thả con bà.

Ai có nghiệp chậm hoãn

Nhiễm ô hành khổ hạnh,

Phạm hạnh không thanh tịnh,

Trọn không được quả lớn.

         Tức là con quỷ nói: đức Phật nói đúng rồi, cho nên theo những lời bà nói thì ta không dám hại con bà, mặc dù nó phạm giới, nhưng thôi, cũng thả luôn. Cho nên ai có nghiệp chậm hoãn, ý chỗ này nói nghiệp, thì không phải là nghiệp đâu, mà nghiệp này là nghiệp trì giới. Nghiệp trì giới của mình lỏng lẻo, không được thành công, thì trọn không được quả lớn.

Thí như nhổ cỏ may,

Nắm lỏng thì hại tay;

Sa-môn hành ác xúc,

Tất sẽ đọa Địa ngục.

         Tức là giống như mình đi nhổ cỏ may mà nắm lỏng, thì đứt tay. Quý vị biết cỏ may không? Cỏ may mà nắm chặt gốc thì không sao, nhưng nếu nắm lên một chút là xước tay. Cũng vậy, vị Sa-môn mà làm ác xúc, tức là không giữ giới, thì tất sẽ đọa Địa ngục.

Thí như nhổ cỏ may,

Nắm chặt không hại tay;

Sa-môn khéo nhiếp trì,

Tất đến Bát-niết-bàn.

         Cũng vậy, nếu một người nhổ cỏ may mà nắm chặt, không tuột tay lên thì không đứt tay đâu. [Chỗ] ai có cỏ may thì biết, bây giờ chắc quý vị không biết cỏ may là gì, lên mạng tìm thử nha.

Sa-môn khéo nhiếp trì,

Tất đến Bát-niết-bàn.

Khi ấy, Quỷ thần kia liền thả con của Ưu-bà-di này ra. Bấy giờ, Ưu-bà-di nói kệ dạy con (tức là may quá, cuối cùng con quỷ cũng thả ra, chứ không thì nó ám. Câu chuyện này chút nữa Thiện Trang sẽ kể chi tiết cho):

Nay con hãy nghe mẹ,

Nhắc lời quỷ thần nói.

Nếu có nghiệp chậm hoãn,

Nhiễm ô tu khổ hạnh,

Phạm hạnh không thanh tịnh,

Thì không được quả lớn.

          Ý là bà mẹ nói lời con quỷ nhắc, là tại vì con tu không giữ giới thanh tịnh, cho nên không được quả lớn.

Thí như nhổ cỏ may,

Nắm lỏng thì hại tay.

Sa-môn khởi ác xúc,

Tất sẽ đọa địa ngục;

Như nắm chặt cỏ may,

Tất tay mình không hại.

Sa-môn khéo giữ gìn,

Tất đắc Bát-niết-bàn.

Cho nên giữ giới quan trọng là như vậy.

Khi ấy, con Ưu-bà-di tỉnh ngộ như vậy rồi, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chánh tín xuất gia học đạo, sống không nhà, nhưng tâm không được vui, trở về nhà mình. Người mẹ từ xa thấy con liền nói kệ (tức là đứa con cũng khá, sau khi nghe xong cũng tỉnh ngộ, đi xuất gia, đắp áo ca-sa, nhưng một thời gian sau lại trở về nhà, lại không vui, thì người mẹ tiếp tục nói con):

Lánh tục mà xuất gia,

Tại sao trở về làng?

Nhà cháy, của kéo ra,

Sao ném vào lửa lại?

Tức là giống như đi xuất gia rồi, tại sao lại trở về nhà? Nhà cháy, đem đồ hết ra ngoài rồi, tại sao lại ném vô trong nhà cháy nữa, cháy hết đồ thì sao? Ý [bà mẹ] nói như vậy.

Tỳ-kheo con Ưu-bà-di kia nói kệ đáp (tức là lúc này người con thọ giới Tỳ-kheo rồi):

Chỉ nghĩ mẹ mạng chung,

Còn mất không gặp nhau;

Nên trở về thăm viếng,

Sao thấy con không vui?

Ý là người này đi xuất gia rồi mà nhớ mẹ, nghĩ đến mẹ sau này chết sẽ không gặp nhau, cho nên trở về nhà thăm viếng.

Lúc ấy, người mẹ Ưu-bà-di nói kệ đáp:

Bỏ dục mà xuất gia,

Trở về muốn thụ hưởng;

Cho nên mẹ lo buồn,

Sợ bị Ma lung lạc.

Sau khi Ưu-bà-di đã giác ngộ con mình như vậy, như vậy rồi, người con trở lại chỗ thanh vắng, tinh cần tư duy, đoạn trừ tất cả Phiền não Kiết phược, chứng đắc quả A-la-hán.

Quý vị thấy kết quả cuối cùng vẫn là kết thúc tốt đẹp, mặc dù trầy trật. Vị này tu hành mới đầu bị quỷ ám [do] phá giới, rồi đi xuất gia một thời gian thì trở về, rồi bà mẹ nói nữa, cuối cùng cũng phải đi vô, quần quần vậy đó. Cho nên tu hành cũng gian nan, nhưng cuối cùng cũng đắc quả A-la-hán, đoạn trừ hết tất cả Phiền não, Kiết phược, chứng được quả A-la-hán.

(Kinh 1239. Quỷ Ám – Kinh Tạp A Hàm).

Nếu quý vị nghi ngờ về Kinh này, thì có chú thích đây, tương đương với kinh nào ở trong Tạng của Pali, thì lúc nữa coi.

Nhân đây thì Thiện Trang kể câu chuyện này, trong Kinh Pali, Thiện Trang cũng đã tham khảo. Coi Kinh Pali thì câu chuyện này dài hơn, nằm trong Tích Truyện Pháp Cú, thực ra là trong Tiểu Bộ Kinh.

Câu chuyện này dài hơn, có một bà, có đứa con đi xuất gia, rồi sau đó buồn quá bỏ trở về nhà. Khi đi xuất gia mới làm Sa-di thôi, chứ không phải làm Tỳ-kheo. Làm Sa-di nhưng có tài năng, thuyết pháp rất hay, và được rất nhiều người ưa chuộng, nói chung rất nhiều người thích nghe.

Vị này do tu có công đức như vậy, nên vị này cũng thường xuyên nhớ hồi hướng đến những người thân của mình, trong đời này và đời trước. Trong đó có một con quỷ, thực ra con quỷ đó là mẹ của vị Sa-di đó ở đời trước, nên cũng nhận được sự hồi hướng đó. [Vì] nhận được hồi hướng đó, nên được rất nhiều lợi lộc, được người ta chăm sóc chu đáo, tức là được chúng quỷ chăm sóc. Còn những con quỷ khác cũng được hưởng như vậy.

Vị Sa-di đó mới đầu nhỏ tuổi, theo năm tháng thì vị đó lớn lên. Khi lớn rồi thì nhiễm trần, bắt đầu thích chuyện gia đình, chuyện yêu đương gì đó, nên thoái tâm, không tu nữa và đi về. Đi về nhà, bà mẹ mới nấu cơm cho con, nói chung cũng khuyên con, đang đi tu mà sao bỏ về nhà, khuyên đi khuyên lại, nhưng đứa con không chịu [nghe]. Bà mẹ đành đi nấu cơm, còn đứa con thì lên ghế ngồi hay nằm gì đó.

Lúc đó đám quỷ thần kia quán sát, không biết ông này đi đâu rồi, mà không thấy hồi hướng cho mình. Cho nên quỷ mẹ (mẹ của ông đời trước), nghĩ chắc là [con mình] về, đã thoái tâm và hết tu rồi, [vì vậy] mình mất lợi ích, không được hồi hướng nữa, nên mình phải tới để độ nó. Độ bằng cách nào? Đang thấy ổng ngồi trên đó, giới không còn thanh tịnh, tại vì về rồi, giới không thanh tịnh nên nhập vô được. Bắt đầu cho ổng lăn từ trên ghế xuống đất, rồi khóc la gì đó v.v… Bà mẹ sợ quá, hỏi tại sao? Con quỷ mới nói bài kệ giống như nội dung vừa rồi, nói là: Tôi là quỷ, thế này thế kia, do con bà như vậy, như vậy.

Bà mẹ lo [cho] con mình quá, không biết phải làm sao. [Con quỷ] kêu: “Lát nữa tôi xuất ra rồi, bà hãy nói lại với con bà như vậy, như vậy”. Nội dung giống tương tự như bài kệ trên. Sau khi xuất ra, bà mẹ nói đúng [lại] như vậy, xong rồi khuyên đứa con. Đứa con trở lại tu tập, thọ giới Tỳ-kheo, tu hành sau đó một thời gian thì đắc quả A-la-hán. [Về việc] đắc quả A-la-hán, thì trong tạng Pali không nói, trong Kinh Nikaya cũng không thấy nói, mà chỉ nói tới đoạn đi tu tiếp thôi.

Nhưng rõ ràng câu chuyện đó khai thị cho chúng ta rất nhiều: Thứ nhất là giữ giới thì không bị quỷ ám, rồi giới Bát quan trai phải thọ như thế nào, phải giữ như thế nào. Trong vòng một tháng là phải thọ sáu ngày, rồi ba Tháng thần biến nữa, theo Bồ-tát giới là phải thọ ba tháng: tháng Giêng, tháng Năm và tháng Chín.

Rồi ngoài ra tu hành, quý vị thấy nếu phạm giới hay phá giới, thì dễ bị quỷ ám. Ở đây nói nếu quay trở lại tu thì vẫn đắc quả A-la-hán. Chúng ta thấy rõ ràng vấn đề này là để quý vị lỡ phạm. Nếu căn cứ vào nội dung câu chuyện, thì chúng ta thấy người này cũng không phạm giới trọng nào, chỉ phạm những giới nhỏ. Cho nên sau này xuất gia thì đắc A-la-hán. Đó là chúng ta cũng hiểu thêm về Giới luật. Quý vị, nếu ai chưa học Giới luật, thì cố gắng nghe bộ Tại Gia Luật Yếu Quảng Tập, để hiểu hơn và tu tập, vì Giới luật quan trọng.

[Tiếp theo] Thiện Trang xin chia sẻ thêm một chút pháp hành nữa, đó là:

7 Pháp Làm Cho Chánh Pháp Tăng Trưởng Không Bị Tổn Giảm (1)

          Đây là bảy pháp thứ nhất đánh số một, bữa khác sẽ đánh số hai, số ba.

“Này các Tỳ-kheo, lại có bảy pháp làm cho Chánh pháp tăng trưởng không bị tổn giảm.

1. Có tín tâm, tin đức Như Lai, Chí Chân, Chánh giác, đủ mười đức hiệu. Đầu tiên mình phải có niềm tin, tin ai? Tin Phật giùm đi, tin Phật là đức Như Lai, hoặc là Chí Chân tức là chân thật nhất, rồi Chánh giác, đủ mười đức hiệu.

2. Có tàm, biết hổ với điều thiếu sót của mình. Mình phải có tàm, có quý. Ở đây nói là phải biết hổ, biết thẹn, với những điều thiếu sót của mình.

3. Có quý, biết thẹn với việc ác mình đã làm. Điều này mà mình không biết thì không tu được, Chánh pháp của mình sẽ bị tổn giảm. Cho nên mình phải biết mình thiếu sót điều gì, mình đã làm việc sai gì, mình phải biết hổ, biết thẹn.

4. Đa văn, những điều đã được thọ trì đều thiện xảo ở đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối, nghĩa và vị thâm áo, phạm hạnh viên mãn, thanh tịnh không cấu uế. Quý vị nhớ là phải đa văn nha, đa văn chứ không phải học kiểu: thôi tôi biết bao nhiêu đó được rồi. Không phải! Phải học đa văn. Đa văn có hai nghĩa: [một] nghĩa là mình hiểu điều nào [phải] cho rõ ràng, thấu suốt.

Bây giờ nhiều người đề xướng “nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu”, nhưng nếu họ đa văn thì cũng được. Đa văn là môn đó quý vị học cho thấu suốt, kinh của Phật pháp, một kinh là tất cả kinh, thì cũng được. Nhưng Thiện Trang check (kiểm tra) qua thì thấy không ổn, tại vì hiện tại, Thiện Trang thấy những người học như vậy, đa phần là học bị sai, học một hồi không khớp với kiến thức của Phật dạy. Ví dụ như kiến thức rất căn bản về Tứ đế v.v… rồi những kiến thức căn bản, ngay cả giáo nghĩa căn bản thôi cũng sai bét, thì làm sao có thể nói mình đa văn được. Cho nên đa văn kiểu nhất môn thâm nhập là không ổn. Nếu có người phải thật giỏi, họ dạy một môn mà thông được các môn khác, thì quý vị học một môn, vẫn đa văn.

Còn đây mình học một môn, mình cứ nói một bộ kinh v.v… nhưng mình học một hồi sai bét so với kinh Phật. Những kiến thức căn bản, nào là quả vị tu chứng, nào đoạn Phiền não, nào là giáo lý Ngũ uẩn, rồi Thân kiến, Biên kiến v.v… cũng sai hết. Những kiến thức rất căn bản, như Chánh kiến là gì v.v… cũng sai nữa, thì thôi, chúng ta không dám nói nha.

Thiện Trang khuyên quý vị, những người như vậy nên coi lại. Ví dụ như hồi xưa Thiện Trang thấy, mình cứ học Tam-muội là gì, rồi Chánh định là gì. Cứ dịch ra Tam-muội là Chánh định, Chánh thọ, nhưng trong kinh không phải nói như vậy. Thiện Trang kêu: “Sao kỳ vậy?” Sau này Thiện Trang mới biết, phát hiện ra rằng, có rất nhiều kiến thức mà xưa nay mình học, không phải với một người, mà nhiều người, đều không chính xác so với kinh. Lý do là những người đó cũng chỉ được học lại, hoặc người ta tự suy diễn theo thuật ngữ đó, rồi bắt đầu đoán nghĩa, chữ Hán như vậy nên mình giải như vậy thôi. Chứ thực ra đức Phật giải kiểu khác, đức Phật giải hết trong kinh rồi, những kiến thức căn bản đó đức Phật giải hết trong Kinh A Hàm, Kinh Nikaya rồi. Mà mình không học, mình tự suy luận, mình tự giải theo ý nghĩ của mình, thành ra trật. Rồi mình truyền cho đời sau, đời sau truyền tiếp, truyền tiếp, truyền một hồi đi đâu [luôn].

Nên bây giờ tại sao có rất nhiều kiến thức Phật pháp, mình nghe thầy này khác, nghe thầy kia lại khác, là tại vì điều đó. Tức là thầy này dẫn theo hướng này, thầy đó hiểu sao [thì] giảng theo hướng [của] ổng, ổng lấy thuật ngữ đó rồi giảng theo điều đó. Ví dụ Chánh kiến là gì, [thì] ổng giảng theo ý hiểu của ổng. Thầy kia cũng vậy, Chánh kiến là gì, thì cũng giảng theo ý hiểu của ổng. Cho nên hai ông giảng một hồi đi đâu luôn, nên mình nghe không khớp. Còn nếu quý vị nghe người nào giảng đúng theo trong kinh, thì chỉ có một kiến thức đó. Phật giảng như vậy, hoặc Đệ tử của đức Phật giảng như vậy, mình học y chang vậy, là đúng.

Đó là do thời Mạt pháp, người học thì ít mà người giảng thì nhiều. Tức là không chịu học mà ra làm Pháp sư, biết gì đó rồi lên giảng nghiễn. Còn chúng sanh thì chấp, Đệ tử theo thầy đó ‘tiên nhập vi chủ’, vô đó là sống chết với thầy đó luôn. Cho nên họ không thoát ra được, rồi cố bảo vệ thầy tới cùng, tôn vinh thầy lên mức độ nào đó. Cho nên là nguy hiểm lắm.

Thiện Trang khuyên, nếu quý vị có thời gian thì quý vị hãy coi Kinh A Hàm, Kinh Nikaya, rất nhiều kiến thức được đức Phật giảng, và có thời gian nữa thì quý vị nên coi kinh điển Đại thừa. Bởi vì kinh điển Đại thừa cũng rất hay, không thể bỏ kinh nào hết. Hãy học tất cả và khi quý vị học đến mức độ nào đó thì quý vị sẽ hiểu được: À, kinh hay lắm!

 Mới đầu quý vị coi [thì thấy] khó lắm, khó cực kỳ, nhưng Thiện Trang đã chia sẻ cho quý vị rất nhiều kiến thức trong thời gian qua rồi. Với nền tảng Thiện Trang cung cấp cho quý vị, bây giờ [khi] nghe Kinh A Hàm, Kinh Nikaya thì quý vị sẽ hiểu được, không khó nữa. Bởi vì những kiến thức nào là Sơ quả, Nhị quả, Tam quả, Tứ quả, nào là bất hoại tịnh đối với Phật, bất hoại tịnh đối với Pháp, bất hoại tịnh đối với Tăng, v.v…. Những kiến thức [cơ bản] từ từ Thiện Trang đều cung cấp. Rồi Ngũ uẩn v.v… Khổ, Không, Vô thường, vô Ngã, những kiến thức đó được lặp đi lặp lại rất nhiều. Cho nên quý vị nghe thì sẽ hiểu, và từ từ quý vị có Chánh kiến.

Còn không, mình học hoài, mình sẽ bị rớt vào Tà kiến, vì học sai với giáo pháp của Phật. Mà đã Tà kiến thì không thể nào chứng quả Thánh được, nên nhớ vậy! Mình càng học, mình càng nghi. Vì sao? Vì mình học sai. Ráng lên nha! Thời nay là kinh sách được dịch đầy đủ rồi, [quý vị] ráng học. Không cần biết chữ cũng được, không cần biết ngoại ngữ, nào là tiếng Pali hay là Sanskrit hay là Hán cổ, quý vị vẫn học được. Những người biết là để tra cứu, để coi, để so sánh.

Như Thiện Trang thì thấy có những chỗ Thiện Trang nghi: À! Hình như người ta dịch có vấn đề, thì Thiện Trang mới phải tra lại, coi lại bản gốc. Hình như chỗ này không thông, thì Thiện Trang coi bản gốc. Thiện Trang còn coi A Hàm với Nikaya, vì tương ưng nhau mà, coi bên này xong rồi coi bên kia nữa. Tại vì [Thiện Trang] duyệt cả hai bên rồi, cho nên biết đoạn này [bên kinh này] tương ưng với đoạn nào bên [kinh kia], đoạn này là đoạn nào của Kinh Nikaya, của Kinh A hàm, thì từ đó mình so sánh.

Đó là những người hơi thiên về học giả. Còn quý vị là hành giả, quý vị học vậy được rồi. Tại vì sai sót ít lắm, không nhiều đâu, và sự sai sót đó không đáng kể. Bởi vì ở chỗ này sai, thì chỗ khác sẽ đúng. Tại vì những vấn đề quan trọng thì đức Phật sẽ nói nhiều lần. [Quý vị] nên cố gắng học nha! Chứ đừng có tự phụ, kêu: “Ôi, tôi học không nổi”.

Điều thứ tư này,để Chánh pháp tăng trưởng không bị tổn giảm, là phải đa văn, mình hiểu được ‘nghĩa vị thâm áo rồi phạm hạnh viên mãn, thanh tịnh không cấu uế’. Tức là mình phải tu cho tốt, giữ giới.

5. Siêng năng cần khổ, bỏ ác tu thiện, chuyên tâm tập luyện mãi không ngừng. Ở đây mình phải siêng năng, phải chịu khó, chịu khổ, rồi bỏ những việc ác để làm những việc lành. Ở trong Kinh Vô Lượng Thọ gọi là “khử ác tựu thiện” haycải vãng tu lai,” rồi tập luyện mãi [không ngừng].

6. Điều đã học tập được, ghi nhớ mãi không quên. Điều nào học rồi thì cố gắng nhớ, ôn đi ôn lại những điều căn bản, để mình học điều nào thì mình nhớ điều đó, mình xài điều đó, chỉ cần vậy thôi. Quý vị cứ thấy những điều quan trọng [thì] Thiện Trang hay đức Phật cũng nói đi nói lại, nói nhiều lắm. Quý vị cứ nghe hoài, nhớ hoài, và hành bao nhiêu đó là quý vị có thành tựu rồi.

7. Tu tập trí tuệ, biết pháp sinh diệt, hướng đến con đường xuất ly của Hiền Thánh, dứt sạch gốc khổ. Điều này là phải tu tập trí huệ, bởi vì trí huệ quan trọng. Biết pháp sinh diệt, tức là biết các pháp thế gian là do sinh do diệt, nên không tồn tại mãi mãi; mà mình phải hướng đến con đường xuất ly, tức là ra khỏi thế gian của bậc Hiền, bậc Thánh; rồi dứt sạch gốc khổ. Mình phải nhắm tới đó, quý vị [nhớ] bảy điều này.

Với bảy pháp như thế thời Chánh pháp tăng trưởng không bị hao tổn”.

(Trích từ Kinh Du Hành – Thuộc Trường A Hàm).

Điều này quý vị có thể coi trong Kinh Nikaya cũng có thôi, Kinh Nikaya gọi là Kinh Đại Bát Niết Bàn, Kinh Du Hành ở bên Trường A Hàm, thì hai kinh này đều có. Và không chỉ có bảy pháp này đâu, mà còn nhiều bảy pháp khác nữa, để bữa khác Thiện Trang sẽ giới thiệu bảy pháp khác. Quý vị cố gắng làm theo điều này, thì chúng ta sẽ được lợi ích. Và Chánh pháp tăng trưởng tức là tăng lên, lớn mạnh lên, không bị hao tổn. Còn nếu làm ngược lại thì chắc chắn sẽ bị hao tổn.

          Thiện Trang trích thêm, đây cũng là một pháp hành nữa, đó là:

Yếu Tố Làm 5 Triền Cái Tăng Thêm

[5 Triền cái] là tu Thiền chỉ đúng không ạ? Thật ra là tu Thiền quán nữa, tu Thiền quán mà có năm Triền cái thì sẽ không tốt, tu không được. Năm Triền cái là gì, thì đoạn này chính là cách để làm sao tăng thêm, tăng thêm là không tốt, thì mình giảm ngược lại cho tốt. Đoạn này đức Phật nói luôn:

Tôi nghe như vầy: Một thời, đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ Đà, nước Xá Vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: “Có năm triền cái, bảy giác chi, có thức ăn, không thức ăn. Nay Ta sẽ nói. Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ngươi mà nói.

Năm Triền cái là chướng ngại để vào các tầng định, thiền. Còn bảy giác chi là ngược lại, giúp cho tu tập. Hôm nay Thiện Trang chỉ giới thiệu năm Triền cái thôi, còn bảy giác chi thì để bữa khác. Lần sau sẽ giảng bảy giác chi là gì, rồi làm sao tăng được bảy giác chi, thì ở trong đoạn kinh này chính là nói điều đó luôn. Nhưng Thiện Trang chỉ cắt đoạn đầu nói về năm Triền cái thôi.

Thí như thân thể phải nhờ vào thức ăn mới tồn tại, chứ chẳng phải không nhờ thức ăn. Cũng vậy, năm triền cái nhờ vào thức ăn mới tồn tại, chứ chẳng phải không nhờ thức ăn.

Năm Triền cái là gì, thì đoạn này nói luôn, tại sao có năm Triền cái, phải có thức ăn để cung cấp năng lượng cho nó. Vậy chúng ta muốn tu Thiền, thì chúng ta phải dứt được năm Triền cái, thì chúng ta mới tu Thiền, tu Định được, tu tập mới được. Còn nếu ai có năm Triền cái là tu không được đâu. Cho nên ở đây chúng ta phải coi nguồn cung cấp năng lượng của nó là gì, tức là thức ăn của nó là gì. Chỉ cần biết được gốc của nó là từ đâu, mà mình cắt nguồn.

Giống như mình biết đứa con mê chơi game, nó đi chơi một ngày 10 tiếng ở quán game, thì mình phải biết là nguyên nhân do đâu mà nó có thể đi chơi 10 tiếng một ngày, và mình biết là do nó có tiền thì mới trả được. Vậy chỉ cần tra tiền đó là từ ai: cha cấp, anh em cấp hay là mẹ cấp, hay bà nội, bà ngoại cấp, hay là nó đi ăn cắp. [Mình] biết được, cắt tiền đó [là] xong, là nó không đi chơi được nữa.

 Cũng vậy, nếu muốn không bị [tham], hôn trầm (ngủ gục), sân hận, phóng dật [trạo hối], hoài nghi, thì chúng ta [phải] cắt nguồn lương thực (thức ăn) của năm món đó đi. Đức Phật ý nói ví dụ như vậy, chúng ta sẽ dễ dàng [hiểu được]. Và đây là lời trong kinh, Thiện Trang cố gắng giảng toàn là lời kinh Phật thôi. Quý vị không thể nói là Thiện Trang giảng theo ý của Thiện Trang được, đây là lời Phật, quý vị không nghe thì quá đáng tiếc thôi. Cho nên là cố gắng nghe nha!

Đức Phật nói là ‘giống như thân thể thì nhờ thức ăn mới tồn tại. Cũng vậy, năm Triền cái nhờ vào thức ăn mới tồn tại, chứ chẳng phải không nhờ thức ăn’.

1. Tham dục Triền cái :

Tham dục triền cái lấy gì làm thức ăn? (Tức là đầu tiên là Tham, chúng ta có Tham thì không thể nào nhập Sơ thiền được đâu. Tham có nhiều [loại] tham, nhưng Tham dục là tham ở cõi Dục, chứ còn tham ở cõi Sắc hay cõi Vô sắc thì không ảnh hưởng đến Sơ thiền). Đó là tướng xúc. Đối với tướng ấy mà không tư duy đúng, thì tham dục chưa khởi sẽ khiến khởi, tham dục đã khởi rồi thì có thể khiến cho tăng rộng. Đó gọi là thức ăn của dục ái triền cái.

Như vậy đức Phật chỉ luôn nguyên nhân tại sao mình tham dục, mà tham dục này là tu không đắc Thiền. Muốn đắc được năm chi thiền hay bảy chi thiền thì quý vị phải bỏ được năm Triền cái trước đã, cho nên nhiều người tu không được. Giống như hôm bữa có chú Phật tử ở Úc tới phỏng vấn Sư Minh Tuệ, hỏi: “Hồi xưa con tu Thiền thì con có thể vào định được, mà bây giờ con tu lâu năm rồi tại sao không vào được?” Sư Minh Tuệ trả lời là do mình có lỗi, bây giờ mình không buông được, hồi xưa buông được nhiều hơn.

Quý vị mới phát tâm tu hành thì dễ buông, buông dữ lắm, tu dữ lắm, giữ giới nghiêm, rồi không tham, không sân, không si, không có này, không có kia. Còn tu lâu là bắt đầu tham nhiều hơn đúng không? Vẫn tham, hồi xưa thì không có danh, mới đầu vô tu đâu có danh. Người Cư sĩ cũng có danh của Cư sĩ, người xuất gia có danh của người xuất gia. Rồi hồi xưa thì mình giữ giới ngon lành, sau này mình tùy duyên [nhiều hơn], điều nào cũng tùy duyên. Rồi mình vẫn ham ở đời nhiều hơn, cho nên rớt mất mấy chi thiền (mình nói năm chi thiền để vào Sơ thiền đi).

Mình rớt năm chi thiền này là do năm Triền cái, năm Triền cái này đầu tiên là Tham dục. Tham này là những mong muốn ở cõi Dục, nên gọi là tham dục. Chứ còn nếu nói về Tham [trong Kiết sử] thì phải tới Tam quả A-na-hàm mới hết tham, [quý vị] nên nhớ vậy. Còn tham này là ở cõi Dục thôi. Cõi Dục là mình ham về ăn uống, ham về sắc dục, ham tiền bạc, ham danh, ham đủ các thứ. Đó là những ham muốn rất thô, chứ không phải [ham] nhẹ.

Đức Phật nói mấy điều này lấy gì làm thức ăn? Đó là Tướng xúc. Tướng xúc là gì, ở đây có chú giải luôn cho chúng ta, nghĩa là là Tịnh tướng. Tức là mình tiếp xúc với gì đó thì có tướng. Có nghĩa là do quý vị thấy có thức ăn thì quý vị mới tham ăn chớ. Hoặc là quý vị tiếp xúc qua, biết món đó gọi là bánh bèo, rất ngon, hoặc là mình nghe người ta nói ở miền Bắc có phở Hà Nội ngon lắm, thì mình tưởng tượng ra. Tức là có tiếp xúc qua thì mình mới khởi tham về ăn món đó. Còn không, bây giờ nói món gì đó, kêu tôi cũng không biết món đó. Hoặc là mình tưởng tượng món đó ghê gớm lắm, giống như có món thịt thối gì đó, hoặc món đậu hũ thối, mình nghe nói món đó có mùi hôi lắm không ăn được. Thế là mình không muốn, thì mình đâu có tham.

Cho nên Tham này là do tiếp xúc. Xúc này không phải là một xúc ở trong Luận Câu Xá, mà chúng ta [coi] trong kinh đức Phật nói có tới mấy xúc. Chúng ta có mấy giác quan là có mấy sự xúc.

Ví dụ như xúc qua mắt, mắt nhìn thấy, mình biết bữa nay quảng cáo ra cái điện thoại Iphone mười mấy đó, rất đẹp. Mình thấy đẹp, màu đó hợp với tôi, giống như màu tím dành cho những người bị gì đó, kiểu đó hợp. Hoặc là có quần áo gì đó hợp [với mình], đó là mình thấy trên tivi quảng cáo như vậy. Hoặc là thấy chiếc xe đó màu hợp [với mình], hay thế nào đó. Đó là do tiếp xúc của mắt mà mình tham, mình phải niệm niệm mua cho được cái điện thoại đó, mua cho được chiếc xe đó, mua cho được bộ quần áo đó. Đó là tướng xúc.

Rồi nghe tiếng, tức là xúc này là do qua tai nghe, nghe người ta nói, nghe người bạn nói: bữa nay có ra chiếc xe mới đó, hoặc là có kiểu nhà mới đó, làm mà ở. Hoặc là mua cái này xài ngon lắm v.v… nghe chứ chưa thấy, đó là tướng nghe.

Rồi tướng ngửi, tức là mũi mình ngửi được mùi thơm, [do] đi qua quán ăn đó, nghe [nói] có món gì đó ngon quá, [người ta] bưng ra mình không thấy món gì, nhưng nghe mùi thôi là mình biết món này ngon, bữa sau phải ăn cho được. [Đó] là tham rồi, chẳng hạn như vậy.

Rồi tướng chạm của lưỡi, tức là lưỡi của mình nếm qua. Ví dụ bình thường mình không biết món ăn đó, nhưng người ta cho chút mật vô đó, [mình nếm thấy] ngon quá, thế là từ đó mình tham theo.

 Rồi xúc chạm, ví dụ như câu chuyện của Thái tử Thanh Tịnh, đầu tiên là ngài không biết nữ [sắc] là gì hết. Nhưng do cô dâm chủng chạm vào người, thế là từ đó biết người nữ, và từ đó thích luôn. Mặc dù bao nhiêu năm thanh tịnh, [trước đó] không ai đụng được hết. Cho nên đó là tướng xúc, mà xúc này qua xúc [chạm] thân thể.

Cuối cùng là xúc qua ý, ý tức là ý thức của mình, mình tự nghĩ, suy nghĩ tưởng tượng ra, đa số là tưởng tượng. Ví dụ như mình lớn lên thế nào đó, rồi tưởng tượng mai mốt lập gia đình sướng lắm thế này thế kia, cưới vợ hay có người yêu gì sướng lắm, thế này thế kia, cho nên từ đó tưởng. Nếu không ai dạy, không có tiếp xúc, thì không biết điều đó.

Cho nên nguyên nhân của tham dục là sự tiếp xúc của mình đối với ngoại cảnh (môi trường bên ngoài), và có sáu căn nên có sáu sự tiếp xúc. Sáu cửa mở ra, nên nhận vô nhiều thứ lắm. Vậy làm sao để giảm được tham dục? Đó là cố gắng bớt tiếp xúc. Cho nên Hòa thượng Tịnh Không nói là đừng coi ti vi. Để làm gì? [Để] khỏi coi mấy phim ảnh yêu đương, khỏi coi quảng cáo, [vì] nhiều quá.

Mà bảo đảm với quý vị, nếu quý vị coi quảng cáo hằng ngày mà không mua đồ, là quý vị giỏi đó, tức là công phu định lực của quý vị dữ lắm đó. Chứ không, lên mạng [coi] quảng cáo một hồi thôi là mình cũng thích mua, không thích mua cái này thì cũng thích mua cái kia. Khó lắm quý vị! Hay là quý vị nghèo quá [nên] không mua được thôi, chứ quý vị cũng muốn, thật ra là vậy.

Cho nên có rất nhiều thứ mà mình chỉ cần tiếp xúc qua là tham, mà tham đó là tham dục. Nên đức Phật chỉ ra nguyên nhân là như vậy. Vậy thì bây giờ phải làm sao? Cố gắng bớt tiếp xúc. Thứ nhất là đừng tiếp xúc với quảng cáo, đừng tiếp xúc với những người xa hoa, đừng tiếp xúc với những người hay quảng cáo những gì đó mà mình thấy đúng tầm ưa thích của mình. Cố gắng bớt bớt đi. Rồi đừng đi qua những chỗ nào mà dễ khiến cho mình thích, vì điều đó làm cho tham khởi lên. Mình tránh duyên đi, thì sẽ tránh được tham dục.

Quý vị thấy đức Phật dạy hay lắm, đức Phật chỉ luôn nguồn tận cho mình. Còn mình cứ nghe người ta nói một hồi, đâu có rõ đâu. [Điều này] rất rõ ràng. Đó là Triền cái thứ nhất, là tham dục.

          2. Sân nhuế Triền cái:

Những gì là thức ăn của Sân nhuế Triền cái? (Sân nhuế là sân hận, bây giờ mình sân lên thì cũng không thể đắc Thiền được, tu Thiền không được). Đó là tướng chướng ngại.Đối với tướng ấy mà không tư duy đúng, Sân nhuế cái chưa sinh khởi sẽ khiến khởi; sân nhuế cái đã khởi rồi, thì có thể khiến cho tăng rộng. Đó gọi là thức ăn của Sân nhuế Triền cái.

[Thức ăn của Sân nhuế Triền cái] là tướng chướng ngại. Quý vị hiểu tướng chướng ngại này không? Có nghĩa là tại sao mình sân? Tóm lại là do mình bị chướng ngại, có nghĩa là đối nghịch lại, mình làm việc gì đó mà nó cứ ngược lại với ý mình, nó chống lại. Giống như mình muốn đi qua bức tường, mà người ta ngăn cái tường lại không cho qua, mình muốn làm việc đó nhưng không thành công. Tướng này gọi là tướng chướng ngại, khiến cho sân.

Cho nên ai mà luôn luôn được thỏa mãn thì sẽ không sân. Nhiều người nói tự hào: “Con đâu có sân gì đâu thầy. Con thấy con ngon lành, con đâu có sân”. Tại vì quý vị chưa có luyện trong hoàn cảnh đó thôi, hoàn cảnh của quý vị toàn là cảnh thuận. Về nhà quý vị hét một cái, tất cả người nhà im re, không ai dám nói. Quý vị lên công ty, quý vị làm chủ công ty, giám đốc công ty mà, quý vị hét một cái [là] nhân viên im re hết. Rồi đi vô Đạo tràng, quý vị [làm] chủ Đạo tràng, quý vị cũng hét một cái là người ta sợ hết. Lên gặp thầy trụ trì, quý vị cũng nói một cái, thầy trụ trì cũng sợ mất tín đồ cúng dường, nên thầy cũng im luôn, nhịn luôn. Thì có ai cho quý vị bài chướng ngại đâu mà quý vị sân, đó là do không có cảnh.

Còn mấy người đi chùa thì sao? Đi chùa thì thân phận nghèo, giống như ‘em vốn mang thân con gái nhà nghèo’, lên chùa vô rửa chén cũng bị chửi nữa. Rồi ở nhà thì bị ông chồng ăn hiếp, đi tu thì bị bà chủ Đạo tràng chửi, kiểu nào đi đâu cũng thế. Toàn là chướng ngại, chướng ngại càng nhiều thì dễ sân nhiều. Giống như ra ngoài đường cũng vậy, [bị] kẹt xe [nên] tức mình. Rồi [khi] đi về, đã kẹt xe [lại] còn mưa nữa, cho nên có nhiều [sự] khó chịu.

Nói chung sự chướng ngại càng nhiều thì sự dễ sân càng nhiều, cho nên hơi khó, điều này là [do] hoàn cảnh. Cho nên muốn không sân, thì tu hành phải rơi vào hoàn cảnh tốt một chút, có nghĩa là mình phải tránh duyên. Nếu không tránh được thì ráng nhẫn thôi. Nhẫn, nhưng có người nhiều khi nhẫn không được. Rồi có nhiều điều bực mình lắm, có nhiều cái sân lắm. Nói tóm lại: những gì chướng ngại mình, là nguyên nhân, là thức ăn của sân. Mình phải tìm ra nguyên nhân rõ ràng. Mà không cần phải tìm, ở đây đức Phật nói cho mình.

Cho nên quý vị thấy mình học trong kinh thấy rõ ràng lắm, tất cả đều nói một cách rốt ráo, nói nguồn cội, sân là do làm sao, tham là do làm sao, để mình tránh. Cho nên ai mà thuận duyên nhiều thì họ ít sân. Còn quý vị ở bên cạnh một người mà suốt ngày phiền não, họ nói thế này, nói thế kia. Mới vô cầm đôi đũa gắp [thức ăn], thì họ nói: “Sao mà gấp món này trước, ăn món kia trước kìa”. Rồi một hồi họ nói: “Ăn gì mà chậm vậy?” Họ nói vài câu là quý vị nổi điên rồi.

Tại vì đó là tướng chướng ngại, cho nên có những hoàn cảnh thử thách rất khó. Quý vị muốn tu được thì quý vị phải luyện, luyện hoài thành quen, thì bớt [sân] thôi. Kệ, ai nói gì thì nói, ai làm gì thì làm, ta biết ta thôi. Nhưng điều này cũng nguy hiểm ở chỗ là: Ta biết ta thôi, nhưng ta dốt quá, rồi ta cũng không biết ta luôn, thì cũng thua luôn. Rồi ta tệ quá, mà ta cũng không biết ta, ai nói cũng không nghe, thì thôi thua luôn. Cho nên điều này cần phải có trí tuệ. Nhưng cách đầu tiên là phải tránh duyên, cách thứ hai là mình cố gắng né, nhẫn nhục. [Như vậy] thì tu mới đắc Thiền được, vì đây là thức ăn của 5 Triền cái mà.

3. Thụy miên Triền cái:

Những gì là thức ăn của thụy miên cái? (Thụy miên là hôn trầm, buồn ngủ) Gồm có năm pháp (Thụy miên này nhiều hơn, có đến 5 pháp lận, còn điều kia có 1 pháp à). Những gì là năm? Đó là yếu đuối (hôm bữa hình như chúng ta cũng học đúng không? Nhưng yếu đuối là sao?Yếu đuối là mình hoạt động không có mạnh mẽ, mà chầm chậm, rề rề, thì buồn ngủ là đúng rồi. Cho nên là [làm gì] phải mạnh mẽ lên), chẳng vui (chẳng vui là buồn buồn, thì cũng buồn ngủ luôn. Cho nên cố gắng sống tích cực lên, mạnh mẽ, vui lên. Người thường sanh tâm hoan hỷ thì người ta ít ngủ. Điều này thì Thiện Trang thấy đúng. Với Thiện Trang, Thiện Trang thấy mình vui nhiều nên ít buồn ngủ. Mà khi nào không có việc gì làm, hoặc ít tiếp xúc với ai, thì dễ buồn ngủ. Tâm sở Tầm không kéo lên được. Vui thì Tâm sở Tầm mạnh, nên ai thấy buồn thì dễ buồn ngủ nữa. Hãy cố gắng vui), ngáp ợ (đây là dấu hiệu cơ thể buồn ngủ), ăn nhiều (điều này thì rõ ràng, ăn nhiều thì sẽ buồn ngủ thôi), lười biếng (làm biếng quá, không siêng năng thì cũng sẽ buồn ngủ).

Cho nên mình cố gắng làm ngược lại 5 pháp này, cố gắng mạnh mẽ lên, sống đời mạnh mẽ, nói năng… Đôi khi yếu đuối quá thì cũng không được. Rồi vui vẻ lên, cố gắng đừng có ngáp. Ngáp này là do thiếu ngủ nên ngáp chứ sao. Rồi đừng ăn nhiều, đừng lười biếng.

Đối với chúng không tư duy đúng, khi thụy miên cái chưa khởi thì khiến khởi; thụy miên cái đã khởi rồi, có thể khiến cho nó tăng rộng. Đó gọi là thức ăn của thụy miên cái. Có nghĩa là Thụy miên chưa có, nhưng do những yếu tố này sẽ khiến cho có. Nếu đã có rồi thì sẽ [khiến] buồn ngủ hơn nữa, mệt mỏi, rũ rượi hơn nữa.

Cho nên chúng ta thấy đức Phật dạy hết rồi, ở bên A Tỳ Đàm thật ra cũng tổng kết lại từ đây thôi.

4. Trạo hối Triền cái:

Những gì là thức ăn của trạo hối? (Triền cái thứ tư là Trạo hối, tức là trạo cử và hối hận. Trạo cử là tâm của mình cứ chạy lên, liên tục suy nghĩ điều này điều kia, tùm lum hết. Còn hối hận là nghĩ lại những chuyện đã qua) Gồm có bốn pháp. Những gì là bốn? Đó là giác tưởng về thân thuộc (tức là có bốn điều giác tưởng. Giác là biết, biết mà biết kha khá thì gọi là giác; tưởng là suy nghĩ, tưởng tượng về thân thuộc. Do quý vị bị Trạo cử nên cứ suy nghĩ. Quý vị nghĩ về ai? Nghĩ về người thân, rồi hối hận những việc về người thân. Người thân này không phải là người thân trong gia đình không [thôi], mà còn có thể là người yêu, người bạn hay ai đó, rồi đồng tu v.v… Mình cứ nghĩ về những người đó, mình nghĩ nhiều rồi hối hận tùm lum, mình tưởng tượng v.v… Đó là Trạo hối. Ví dụ nam nữ yêu nhau là rõ ràng nhất, họ nghĩ về người yêu nhiều nhất. Đó là Trạo cử. Điều này rõ ràng, ai cũng biết mà), giác tưởng về mọi người (tức là suy nghĩ lung tung, chuyện bên Tây bên Tàu, chuyện thế giới v.v…), giác tưởng về chư thiên (tức là nghĩ về chư Thiên), giác tưởng về những khoái lạc vốn đã tự kinh qua (tự trải qua). (Điều này thì rõ ràng. Những điều hạnh phúc thường làm người ta nhớ đến nhiều hơn là những điều đau khổ. [Ví dụ mình] tưởng tượng là bữa đó ăn được bữa ăn ngon quá. Như có đồng tu chia sẻ nói là có món chè Huế có 20 món gì đó, ăn là nhớ luôn, cho nên mình cứ nghĩ nhớ như vậy. Rồi vô trong miền Nam thì được ăn món bánh xèo, hoặc ăn món trái cây gì ở đâu đó v.v… Mình nghĩ nhớ đến những khoái lạc gì đó, hoặc những niềm vui. Chính vì điều đó làm cho tâm mình bị trạo cử, hối hận).

Tự mình nhớ nghĩ hay do người khác khiến nhớ nghĩ mà sanh giác tưởng (đức Phật nói rõ rằng: là tự mình nhớ nghĩ, hay do người khác khiến nhớ nghĩ mà sanh ra giác tưởng. Đúng rồi! Có những điều mình đâu có biết, nhưng mình do người khác, nhờ người khác tả, nhờ người ta kể, rồi mình tưởng tượng ra như vậy. Tức là có dữ liệu nên mình có tưởng tượng. Cho nên cách đối trị là tốt nhất mình đừng nghĩ, chuyện gì qua rồi thì thôi, nên mới có bài kệ Bạt-địa-la-đế (bài Nhất Dạ Hiền Giả). Bài này rất quan trọng để đối trị bệnh Trạo hối (là Trạo cử và Hối hận). Quý vị nhớ bài này là trị được). Đối với chúng khởi tư duy không chân chánh, khi trạo hối chưa khởi thì khiến khởi, trạo hối đã khởi rồi thì có thể khiến cho nó tăng rộng. Đó gọi là thức ăn của trạo hối.

Điều này thật ra nếu quý vị tư duy đúng, vì ở đây đức Phật nói là tư duy không chân chánh, chứ nếu mình tư duy đúng thì sẽ chuyển Phiền não thành Bồ-đề. Ví dụ lâu lâu Thiện Trang giảng, có đồng tu nói là hình như thầy thích ăn chè hay bánh xèo hay sao đó, thầy cứ nhắc đến chè với bánh xèo. Thật ra không phải! Thiện Trang chẳng nhớ gì hết, hồi nhỏ giờ ăn nhưng không nhớ, nhất thời chỉ nhớ mấy món đó, chắc là được ăn nhiều nên nhớ ra. Chứ bây giờ suy nghĩ một hồi mới nhớ ra món nào đó thì quá lâu. Cho nên Thiện Trang cứ theo trí nhớ mà nói thôi, mà nói là để mô tả, để diễn bày thôi, chứ không phải là Phiền não về món đó, tức là không phải vì trạo hối, nên nhớ như vậy. Điều này chỉ là nói thôi, chứ lâu rồi đâu có ăn được đâu. Quý vị ở trong nước thì ăn đủ món này món kia, chứ ở nước ngoài đâu có món Việt đâu, ở nước ngoài đâu có dễ gì kiếm được mấy món đó, lâu rồi không ăn nên đâu có nhớ. Cho nên là không có gì cả. Và nếu có ăn ở nước ngoài thì cũng không ngon bằng trong nước đâu, vì không có đủ gia vị, không có đủ [nguyên liệu].

Đấy là nói cho quý vị để quý vị hiểu thôi, cho nên mình biết chuyển Phiền não thành Bồ-đề. Ví dụ Thiện Trang nói món chè, thì chắc chắn là món chè là món mà hồi nhỏ mình thích ăn, đủ các loại chè, nào là chè nếp (là nấu nếp lên, rồi bỏ chút đường cho ngọt, giống như xôi nhưng ngọt hơn chút nên gọi là chè). Hồi nhỏ Thiện Trang có thể ăn một lúc 3 chén như vậy đó, ăn cỡ đó, gọi là siêu ăn đường.

Đó là món chè nếp. Sau này mình phát hiện ra có món chè ngon hơn, mẹ cắt bột bỏ vô nồi nước đường, bột dẻo dẻo, thì thành chè. Dần dần thời gian lớn lên thì mình mới biết có nhiều món chè ngon hơn nữa. Tức là họ cho dừa, cho này kia vô, mình cũng không biết nữa. Bây giờ nhớ lại thì Thiện Trang mới nói là: Thì ra thế gian tuy là một chữ chè thôi, nhưng do mỗi người có một kiến thức trong quá khứ, mà mình tưởng tượng ra món chè đó như thế nào. Và do xúc cảm hồi đó mình ăn, mình cảm thấy ngon, còn người kia ăn cảm thấy mặn quá, cay quá, hay ngọt quá, nên mình cảm thấy không ngon. Và vì lý do đó mà chúng sanh có Tưởng khác nhau. Chứ thật tế tướng của các pháp là bình đẳng, do kinh nghiệm của mình không giống nhau nên ra khác nhau, và từ đó mình nhận thức khác nhau.

Cho nên đi vào một quán ăn, và dọn ra một món chè, thì mỗi người sẽ khởi lên một cái Tưởng là món này ngon, tôi thích ăn lắm, tôi mong đợi lắm. Còn người kia thì ăn cũng được, không ăn cũng được. Vì sao? Là do định kiến quá khứ của mình mà thôi. Và có thể do nhiều yếu tố nữa, do nhu cầu cơ thể của mình về lượng đường, về lượng này kia gì đó, mà thích hay không thích [món đó].

Cùng vấn đề đó vẫn là Tưởng đấy thôi, vẫn là nghĩ nhớ về những quá khứ v.v… nhưng mình không bị trạo hối (tức là không bị trạo cử và hối hận), thì mình không bị Phiền não. Tức là mình chuyển những tư duy đó thành tư duy về pháp, để mình hiểu được thế gian này. Thường tư duy như thế thì mình sẽ sớm ra khỏi sanh tử. Vì sao? Vì đó là quý vị tư duy trên pháp, chứ không phải tư duy theo sự ham muốn của thế gian. Tức là cũng món chè đó thôi, nhưng chè của mình là chè pháp, còn chè của người ta là chè ăn, khác nhau. Quý vị hiểu chè pháp và chè ăn là vậy.

Cho nên người tu hành lâu năm, theo năm tháng cứ học pháp đi, học dần dần rồi sẽ thấy thế gian này điều gì cũng là pháp hết. Việc này cũng là pháp, việc kia cũng là pháp, người này cũng là pháp, người kia cũng là pháp, thì dần dần quý vị sẽ chuyển Phiền não thành Bồ-đề. Những nghịch duyên trong đời, những khó chịu trong đời, những cay đắng trong đời, quý vị cũng dần dần chuyển thành giác ngộ. Và do thường xuyên sống như vậy thì công phu của quý vị sẽ đắc lực, ngôn ngữ trong kinh Phật gọi là công phu Tam-muội, là Chánh định. Chánh định này là Chánh định của xuất thế gian.

Quý vị nhớ nha, Chánh định có tới mấy loại định, chứ không phải Chánh định lúc nào cũng xuất thế gian đâu. Trong kinh đức Phật nói: do đắc được Chánh định xuất thế gian thì đó là Tam-muội xuất thế gian, thì quý vị sẽ chứng quả giải thoát thôi. Bí quyết của tu hành là như vậy đó.

Tóm lại là làm sao để đem tất cả những gì hằng ngày mình tiếp xúc, hay là quá khứ đã tiếp xúc, hay tương lai chưa tiếp xúc v.v… quy về một mối, đó là tất cả pháp đều là Khổ – Không, Vô thường, Vô ngã, đều là do duyên mà sanh, do duyên mà diệt, do điều kiện này, do điều kiện kia, mà không giống nhau. Mình thường tư duy như thế, và hiểu được như thế, thì dần dần mình sẽ vào được địa vị Thánh nhân lúc nào mình không biết. Và xin chúc mừng quý vị, quý vị sẽ ra khỏi sanh tử. Chỉ đơn giản vậy thôi.

Cho nên tu hành không phải là đợi vô thời khóa, ngồi đó xếp bằng, rồi mới tu. Tu đó thì cũng đúng, nhưng chưa đủ. Còn quý vị tu trong đời sống, là phải đổi tri kiến của mình. Và cái nhìn như hồi nãy Thiện Trang nói, là một trong Chánh kiến, Chánh tư duy. Và từ Chánh kiến, Chánh tư duy đó mới dẫn cho mình đến những chánh sau, thì đủ Bát chánh đạo. Quý vị nhớ nha! Đây là những pháp hành, pháp tu mình cần phải học, chứ không phải mình chỉ học trên chữ nghĩa. Tất nhiên mới đầu là mình phải học trên chữ nghĩa đã, nhưng dần dần mình nhìn xung quanh đâu cũng là pháp hết, tất cả pháp đều là Phật pháp thì thành công.

Còn nếu mình sống một hồi, học thì học thế thôi, một lát dọn món chè lên, thấy chè ngon quá, để ăn cái đã, quên mất bài pháp về chè thầy Thiện Trang giảng hôm nay rồi. Như vậy thì không được. Mình vừa ăn chè, vẫn nghĩ là món chè này ngon đó, nhưng ngon là do ngọt, vừa với miệng của mình, nên ngon. Còn bà kia ăn mà nhăn mặt vì thấy ngọt quá, hoặc người kia lại thấy lạt quá, không ngon. Ở trong món chè đó có bỏ thứ gì đó mình không thích ăn nên mình không thấy ngon… Đó là các pháp do duyên sanh, cũng do duyên mà diệt. Cùng một loại đó, cùng một vị đó, nhưng do chúng sanh có nhiều nghiệp khác nhau, do khuynh hướng tâm lý, do môi trường sống, do thói quen luyện từ nhỏ, do bệnh tật, do nghiệp chướng, đủ các [nguyên] do, mà cảm nhận không giống nhau. Nếu mình hiểu được như vậy, thì coi như mình giác ngộ được một phần.

Cho nên ngay khi ăn là quý vị có Tứ niệm xứ trong đó rồi. Đó là quán pháp, quán tâm, quán thân, quán thọ, thì quý vị tu Tứ niệm xứ ngay trong khi ăn món chè đó. Đó là Thiện Trang lấy ví dụ ăn để tu Tứ niệm xứ như thế nào. Khi ăn cơm mà quý vị cũng nghĩ như vậy, thì quý vị sẽ thành công. Như nhờ Thiện Trang đi nhiều nên Thiện Trang biết, người Việt mình thì hằng ngày đều ăn cơm, ăn cơm nhiều nhất. Nhưng cơm mỗi nơi mỗi khác, cơm ở miền Trung khác với cơm ở miền Bắc, và khác với cơm ở miền Nam, cơm ở miền Tây. Cơm ở trong nước khác với cơm ở ngoài nước. Tại sao vậy? Vì miền Bắc dùng gạo khác, miền Nam dùng gạo khác, miền Trung dùng gạo khác. Rồi gia vị mỗi miền mỗi khác, nấu món ăn chung khác.

Ví dụ như hồi xưa nhà Thiện Trang nghèo lắm, không có gì để ăn hết, cơm ăn còn không đủ, phải trộn thêm khoai mì (củ mì), củ lang vô. Rõ ràng bữa cơm đó đâu có giống với bữa cơm của quý vị đâu, bữa cơm của quý vị toàn là thịt cá không à, rồi nhà khác cũng ăn không giống nhau. Đó là người Việt thôi, khi ra hải ngoại thì vị cũng phát hiện ra [ngay cả] gạo cũng không giống rồi. Ví dụ như người Đức thích ăn khoai tây, suốt ngày ăn khoai tây, vô trong cửa hàng thấy họ ăn khoai tây là chính. Người Pháp thì thích ăn bánh mì, nên bánh mì lúc nào cũng có. Bánh mì của Pháp là ngon số một luôn, khỏi nói. Rồi bánh của Pháp thì đủ các loại. Còn bánh của Đức thì không ngon bằng, chẳng hạn như vậy.

Cho nên ngay trong bữa ăn, mà mình tư duy được là thế gian là như vậy, mình đừng có chấp là tôi ăn bữa cơm này, người ta cũng phải ăn giống mình v.v… Do môi trường sống khác nhau, do khuynh hướng tâm lý, do tiền nghiệp… Mình cứ đếm qua và suy xét như vậy, thì ngay bữa ăn mặc dù dọn ra cơm đó, gia đình mình 5 người cùng nhau ăn chẳng hạn, nhưng người kia chỉ biết ăn mà thôi, ăn một cách bình thường, giống như ăn theo phản xạ, thì mình thấy đó là sự ăn của chúng sanh. Còn mình ăn, nhưng mình nghĩ là chúng sanh ở thế giới khác, hoặc ở đất nước khác, ở vùng khác, họ ăn không giống mình v.v… là do đời trước mình ăn không giống như vầy, đời quá khứ không giống như vầy, đời tương lai mình sanh ra ở chỗ nào thì chắc chắn cũng ăn không giống như vầy. Do như vậy, ngay việc ăn đó, là mình đã nhận ra Vô ngã trong đó rồi. Và mình hiểu các pháp do duyên sanh, cũng do duyên mà diệt ở trong đó rồi. Đó là quý vị đang tư duy về pháp, đó chính là quán Tứ niệm xứ. Quý vị tu như vậy thì không bao lâu quý vị sẽ thành tựu.

Đó là cách tu, tu thì phải tu như vậy. Chứ không phải suốt ngày cứ đọc lên Tứ niệm xứ là gì, nào là quán thân trên thân, quán pháp trên pháp, quán thọ trên thọ, quán tâm trên tâm. Hoặc là quán Khổ – Không, Vô thường, Vô ngã. Xin lỗi quý vị! Khổ – Không, Vô thường, Vô ngã, mà quý vị nắm được cách quán như hồi nãy, thì quý vị sẽ thấy Khổ – Không, Vô thường, Vô ngã trong đó, lâu ngày thì tự nhiên quý vị thành tựu thôi, không cần ép mà quý vị cũng thành tựu. Giống như sạc pin, quý vị sạc đến lúc nào đó sẽ đầy. [Hoặc] quý vị nhỏ nước vào trong thùng, mà nhỏ hoài thì [đến lúc nào đó] cũng đầy thùng thôi.

Cho nên vấn đề là mình phải có nhận thức đúng, mà nhận thức đó gọi là Chánh kiến, Chánh tư duy. Muốn có điều đó thì mình phải tu tập, phải học. Mỗi lần Thiện Trang chia sẻ, quý vị thấy pháp hành đơn giản ngay trong đời sống của mình thôi. Rồi mỗi lần mình lên tu nữa, tu thêm thời gian để mình có Thiền định (Thiền chỉ), Thiền quán sâu hơn. Còn hằng ngày nếu mình sống như vậy, thì mỗi bước chân đi, mọi lúc mọi nơi đều là tu hành hết. Cho nên ngay khi vào nhà vệ sinh thì cũng là tu hành.

Vô nhà vệ sinh tu hành bằng cách nào? Thiện Trang hay nói như vậy, nhưng Thiện Trang hỏi lại: vào nhà vệ sinh làm sao tu hành? Nhiều người nói lúc đó ráng nghe pháp, cắm tai phone vô nghe. Tu hành như vậy được không? Được! Nhưng có người nói: Tôi tu Tứ niệm xứ mà? Nghe pháp chính là quán pháp trên pháp. Còn không, quý vị vô trong nhà vệ sinh thì quý vị thấy: Ôi, thân thể này dơ bẩn quá, người gì mà đủ các loại mùi. Mùi từ đâu ra? Mùi đó là từ Phiền não, nghiệp chướng mà ra. Chúng sanh Ngạ quỷ nghe mùi này thấy thơm, mà sao mình thấy hôi dữ vậy? Rồi thân thể này là Khổ, là Không, có ăn có uống cho nên phải đi vệ sinh, v.v… Mình tư duy [như vậy], thì ngay tư duy đó là chánh niệm tu hành.

Còn quý vị vô đó mà mê mê màng màng: Ôi, hôi quá! Hôi quá! Mau chạy cho ra nhanh. Đó không phải là tu, đó là quý vị đang đọa lạc, quý vị hiểu không? Cho nên tu là tu như vậy, người vào cùng hoàn cảnh giống như mình, nhưng người ta biết tu thì người ta tạo vô lượng công đức. Ở đây nói đơn giản, là vô lượng chủng tử giải thoát ở trong tâm của quý vị được xuất hiện, do tư duy của quý vị đúng.

Chỉ vậy thôi, nhận thức đúng, tư duy đúng, thì quý vị dần dần sẽ ra khỏi sanh tử. Còn nếu như chúng ta vô đó mà chúng ta [kêu]: Ôi, sao mà hôi quá! Hôi quá! Mau chạy cho ra nhanh, sợ quá. Nhà vệ sinh không ai dọn v.v… toàn trách [một] mớ điều này điều kia. Như vậy đó là mình đang đọa, và mình là chúng sanh thật sự, chứ không phải là người giác ngộ.

Nên quý vị nhớ nha! Mấy điều tu hành này, dần dần về sau là tu như vậy. Và tu như vậy thì tu bất cứ môn nào đi nữa, quý vị kèm theo môn đó thì quý vị thành công, dần dần [sẽ] giác ngộ. Khi giác thường xuyên là quý vị có công phu, và công phu đắc lực thì quý vị sẽ thành một vị Thánh nhân. Ít nhất chúng ta cũng vô được địa vị dòng Hiền, không thì vô dòng Thánh luôn là tuyệt vời.

Thiện Trang trở lại bài, vừa rồi Thiện Trang nói về Thụy miên, Trạo hối. Còn một điều nữa là Nghi cái.

5. Nghi Triền cái:

Những gì là thức ăn của Nghi cái? (Tức là bây giờ điều gì cung cấp năng lượng cho Triền cái thứ năm là Nghi). Có ba đời. Những gì là ba? Đó là đời quá khứ, đời vị lai, đời hiện tại. Đối với đời quá khứ còn do dự, đời vị lai còn do dự, đời hiện tại còn do dự. Đối với chúng khởi tư duy không chân chánh, Nghi cái chưa khởi sẽ khiến khởi; Nghi cái đã khởi thì có thể khiến nó tăng rộng, đó gọi là thức ăn của Nghi cái.

Như vậy đức Phật nói thức ăn của Nghi là ba đời, mà điều này là sự do dự, chần chừ. Do dự đối với quá khứ, quá khứ qua rồi nhưng vẫn còn nghi, có những điều nghi như: không biết mình làm điều đó có đúng hay chưa, không biết mình học môn đó đúng hay chưa, rồi không biết mình lựa đã chọn con đường đúng hay chưa. Đó là nghi về quá khứ. Đây là nói quá khứ, chứ mình chưa nói đời [vị lai]. Nghi không biết quá khứ mình tu như thế nào, chắc chưa có đủ thiện căn, v.v…

Rồi nghi về đời vị lai (tức là nghi tương lai). Nghi tương lai là không biết mình có được điều gì không, không biết đời tương lai mình có giải thoát chưa, v.v… Cứ do dự: tu kiểu này chắc không thành công v.v… đó là những sự Nghi. Và nghi không biết có phải có đời tương lai hay không, hay là chết rồi hết v.v…

[Còn] đời hiện tại thì sao? Đời hiện tại thì có nhiều điều nghi lắm, nghi là không biết con đường mình đang lựa chọn đúng chưa đây. Mình đang tu mà nghe sư (thầy) Thiện Trang giảng, không biết ổng giảng tào lao hay không đây, kiểu như vậy, rất nhiều thứ. Đó là nghi đủ thứ, đó là nghi ngờ v.v… Những điều nghi ngờ đó khiến cho mình rớt Thiền.

Tu hành để đắc Thiền là phải bỏ năm Triền cái, khi bỏ năm Triền cái thì chúng ta có năm chi thiền. Mới đầu là năm chi thiền của Sơ thiền, tổng hết bốn tầng Thiền thì có bảy chi thiền. Chúng ta có chi thiền thì chúng ta mới vào Thiền, còn chúng ta có Triền cái là nó ngăn che, không chỉ đối với [tu] Thiền đâu, mà ngay cả tu quán niệm (tức là tu Thiền quán) cũng không được, đừng nói là tu Thiền chỉ. Thiền chỉ, Thiền quán đều rớt hết, nếu như có năm Triền cái này.

Có ai ngủ, hôn trầm mơ mơ màng màng, mà tư duy các pháp được không? Chắc chắn không! Có ai đang nghi các pháp mình học không đúng, mà tư duy về pháp được không? Có ai đang sân mà tư duy về pháp được không? Có ai đang tham mà nhớ nghĩ [niệm pháp được không?] Ví dụ như những người trẻ họ nhớ người yêu, họ đang niệm người yêu không [thôi], thì làm sao niệm pháp được đây. Không được! Rồi có ai đang phóng dật, trạo hối (trạo cử, hối hận), đang suy nghĩ như vậy, thì làm sao mà nhớ được pháp.

Cho nên là năm [Triền] cái này, không phải đối với Thiền chỉ đâu, mà đối với Thiền quán cũng không được, cho nên phải bỏ. Mà [muốn] bỏ thì chúng ta áp dụng những cách trên. Như vậy mình dứt Nghi bằng cách học pháp nhiều và tu nhiều, thì dần dần hết nghi. Quý vị nên nhớ [như vậy]. Còn [bị] những Trạo hối thì quý vị cố gắng tu định. Định là tâm mình dừng lại, đừng nghĩ lung tung, chuyện quá khứ bỏ đi, chuyện hiện tại, tương lai thì kệ đi, điều gì [đến thì đến], đừng nghĩ. Thì tâm buông xả xuống nhiều. Tu định thì không bị như vậy.

Đó đều là những pháp tu mà chúng ta đã học hết rồi. Hôm bữa có bài [Thiện Trang] đưa ra phương pháp rồi.

(Trích Từ Kinh 683. Thực – Kinh Tạp A Hàm).

Quý vị thấy [Thiện Trang] toàn là trích trong kinh, không phải [tự] Thiện Trang chia sẻ. Đó là Thiện Trang đã giới thiệu phần thứ nhất về kinh tạng. Mấy bữa nay lâu lâu giảng một bữa, nên [Thiện Trang] ráng đưa nhiều kinh tạng cho quý vị, để quý vị đủ nền tảng, để quý vị tu. Rồi từ từ chúng ta cung cấp vào Luận Câu Xá.

Thiện Trang xin chia sẻ tiếp về mảng Tâm sở trong A Tỳ Đàm. Quý vị biết Tâm sở trong A Tỳ Đàm rồi. Ở đây có 52 món Tâm sở, chúng ta đã học khá nhiều rồi. Quý vị nhớ chúng ta học tới đâu rồi không?

52 món Tâm sở chia ra gồm có 13 Tâm sở Tợ tha, 14 Tâm sở Bất thiện, 25 Tâm sở Tịnh hảo. Và như vậy chúng ta đã học được 13 Tâm sở Tợ tha, gồm 7 Tâm sở Biến hành và 6 Tâm sở Biệt cảnh. Tợ tha là nó đi với thằng nào, thì nó sẽ dính theo thằng đó. Đi với ác thì thành ác, đi với thiện thì thành thiện. Chúng ta đã học 7 Tâm sở Biến hành là: Xúc, Thọ, Tưởng, Tư, Nhất hành, Mạng quyền, Tác ý; 6 Tâm sở Biệt cảnh trong Tợ tha là Tầm, Tứ, Thắng giải, Cần, Hỷ, Dục.

Quý vị làm sao đó, [khi] Thiện Trang nhắc tới [Tâm sở] nào, thì quý vị nhớ đến [Tâm sở] đó. Rồi quý vị nhớ thêm được nữa là chúng ta đã học tới 14 Tâm sở Bất thiện gồm: 4 Tâm sở [Bất thiện] Biến hành, tức là luôn luôn có trong Tâm sở Bất thiện là: Si, Vô Tàm, Vô úy và Trạo cử. Rồi chúng ta đang học 10 Tâm sở Bất thiện Biệt cảnh, là: Tham, Tà kiến, Ngã mạn, Sân, Tật, Lận, Hối. Hình như học hết rồi đúng không?

          Nhóm Tham phần và nhóm Sân phần đã học rồi. Hôm nay chúng ta học đến nhóm Trì trệ và Do dự, thì có ba Tâm sở là Hôn trầm, Thụy miên và Nghi. Hôm nay, vì Thiện Trang chia sẻ Triền cái, nên sẵn chia luôn [nhóm Tâm sở] này cho cùng [lúc]. Quý vị thấy Hôn trầm, Thụy miên và Nghi [chúng ta] mới vừa học, [Thiện Trang] cố gắng đưa vô cùng lúc, cho nó lặp đi lặp lại cùng một vấn đề, để quý vị [dễ] nhớ.

Hôm nay chúng ta sẽ học về ba Tâm sở cuối cùng, đó là nhóm Trì trệ và Do dự. Làm cho mình chậm chạp, thì gọi là Trì trệ; còn Do dự tức là không quyết định, không dứt khoát. Giống như đứa trẻ nói: “Con không biết con [nên] đi thi trường này hay trường kia, [không] biết làm Kỹ sư, làm Bác sĩ hay làm Giáo viên?” v.v… Kiểu đó là do dự. Rồi trì trệ là chầm chậm, không nhanh. Ba Tâm sở: Hôn trầm, Thụy miên (hay Thùy miên. Có người dịch là Thùy miên, có [người dịch] là Thụy miên), và Hoài nghi.

Tâm sở Hôn Trầm

          Ở đây chúng ta sẽ bắt đầu từ Tâm sở Hôn trầm. Hôn trầm là gì? Ở đây là [đang nói] về Tâm sở nha. Trong A Tỳ Đàm chia ra Hôn trầm, Thụy miên là hai. Nhưng thông thường chúng ta nói Hôn trầm, Thụy miên là chung, đều là buồn ngủ, gục gục thôi. Nhưng không phải, trong này nói rõ hơn về Hôn trầm, Thụy miên.

          Hôn trầm là sự không khéo hòa trộn của tâm, cách không thích hợp với công việc của tâm, trạng thái co rút, lui sụt của tâm, tợ như lông gà gặp lửa. Lấy ví dụ này cho dễ. Hôn trầm là không khéo hòa trộn của tâm. Ở đây chúng ta chưa học về tâm, chúng ta mới học Tâm sở thôi. Các Tâm sở kết hợp lại thì mới gọi là tâm. Chúng ta có 121 tâm, [nhưng] chúng ta chưa học về tâm nào hết. Ví dụ tâm tham như thế nào [thì chúng ta chưa học], chúng ta chỉ mới học về Tâm sở Tham thôi. Tâm sở là một trong yếu tố (hay thành phần) để tạo nên tâm tham. Để tạo nên tâm tham thì có bao nhiêu Tâm sở đó. Nhưng trong đó có một Tâm sở Tham đó thì chưa đủ đâu, mà có một mớ thằng đi theo nữa. Ví dụ như phải có [Tâm sở] Mạng quyền, tức là Tâm sở đó phải có đủ thời gian, chứ [thời gian] ngắn quá, kết thúc cái là xong rồi.

Ví dụ như chúng ta rờ vào lửa, để cảm thấy nóng thì quý vị phải rờ đủ lâu. Quý vị tiếp xúc nhanh quá thì đâu thể bắt được [cảm giác] nóng đâu. Quý vị đưa xẹt tay qua lửa nhanh quá, thì quý vị thấy bình thường, đâu có nóng đâu. Nhưng quý vị để hơi lâu một chút thì sẽ cảm thấy nóng.

Thực tế là Tâm sở quý vị bắt được cảnh rồi, nhưng [trong] cảnh đó Tâm sở Mạng quyền không đủ thời gian, nên nó đưa tín hiệu lên trên não của mình xử lý không đủ thời gian, tín hiệu yếu quá. Cho nên dù nóng nhưng nó chưa bắt được độ nóng, chứ không phải là không nóng. Mình để lâu lâu, thời gian dài dài, [tức] là Tâm sở Mạng quyền phải có. Vì Tâm sở Mạng quyền là Tâm sở Biến hành, thì thời gian phải lâu lâu một chút, thì mới nhận định được là nóng quá. [Vì nóng quá] nên sân, [từ đó] Tâm sở Sân sinh ra.

Hoặc chúng ta nói có Tâm sở Nhất hành là gì? Nhất hành là định, định là phải tập trung một chút, chứ quý vị để tay lên mà quý vị không tập trung. Tay để trên ngọn lửa nóng như vậy, mà quý vị đang nghĩ hôm qua đi uống ly trà sữa ở đâu đó ngon quá, đang nghĩ vậy. Hoặc là đang buồn ngủ, gục gà gục gật thì chắc cũng chưa nóng đâu. Có nghĩa là phải có một chút định (tập trung). Và phải có cảm nhận là thọ, [tức là] Tâm sở Thọ phải hoạt động. Và phải có sự xúc (chạm), tiếp xúc giữa lửa và tay của mình. Rồi có tưởng tượng lửa thì nóng, thì mới nhận định nóng được.

Cho nên phải đủ các Tâm sở Biến hành, tức là 7 Tâm sở Biến hành đều có hết. Và phải có tác ý, tác ý đưa ra là nóng quá nên giựt tay lại. Cho nên 7 Tâm sở Biến hành có, rồi sau đó Tâm sở Biệt cảnh có thể có hay không có, thì tùy. Ví dụ như lúc đó mình cảm thấy có mong muốn là thoát tay ra, thì Tâm sở Dục xuất hiện. Rồi mình đang nói [vì] nóng nên sân, thì Tâm sở Sân xuất hiện. Quý vị thấy lúc đó phải có [Tâm sở] Bất thiện Biến hành [Si, Vô tàm, Vô úy, Trạo cử] ở trong này. Lúc đó si (ngu) mới đưa tay vô đó, và [lúc đó] có Vô tàm, Vô uý [là] không sợ cháy tay, hoặc lúc đó do tâm phóng dật nên mới đưa vào lửa chứ, đó là Tâm sở Trạo cử.

 Chúng ta thấy rõ ràng một hiện tượng nào đó phải trải qua nhiều yếu tố, tức là nhiều Tâm sở. Nhưng ở đây không nói Tâm sở, mà Hôn trầm là sự không khéo hòa hợp, hòa trộn của tâm. Tức là các tâm phối hợp không được khớp với nhau.

Thiện Trang nói như vầy cho quý vị dễ hiểu. Sở dĩ chúng ta có Hôn trầm là [vì điều] gì? Vì tâm chúng ta cứ theo một kiểu nào đó, ví dụ như [quý vị] đang không suy nghĩ gì hết. Chứ còn tâm của quý vị đang chạy liên tục, lúc thì đang sân, lúc thì đang vui, lúc thì đang buồn, lúc đang phấn khích, đang thế nào đó, v.v…. tức là 121 tâm đó chạy liên tục ở trong đầu mình, thì làm sao buồn ngủ được. Còn ở đây do là không khéo hòa trộn các tâm, nên tâm cứ rà rà, rờ rờ, nên buồn ngủ.

Cho nên đây là cách không thích hợp với công việc của tâm. Tức là tâm mình không thấy thích hợp với công việc đó, nó không lo quan sát việc đó, không suy nghĩ về việc đó. Trạng thái [của Tâm sở Hôn trầm] là co rút, lui sụt, tức là tâm giống như thâu lại, không có hứng thú, không phấn chấn lên, mà lui sụt, thu lại. Giống như lông gà mà gặp lửa thì co lại.

Hôn trầm này là sự rã rượi, lười biếng, không linh hoạt, chứ còn mình nhanh nhẹn thì không buồn ngủ đâu. Tâm sở Hôn trầm có tướng trạng là không sốt sắng, có nhiệm vụ đánh mất siêng năng, biểu hiện là sự chùng xuống. Có nghĩa là quý vị sẽ không có sốt sắng, không siêng năng, tâm chùng xuống rõ ràng. Khi một chúng sanh nhàn rỗi do thiếu cần (tức là thiếu sự siêng năng), chúng sanh ấy chịu sự tác động của Hôn trầm, đó là bệnh hoạn của tâm.

Tức là do mình không tích cực, không nỗ lực. Ví dụ như quý vị làm việc gì đó, thông thường chúng ta ngồi máy tính, Thiện Trang thì hay phiên dịch, ngồi máy tính dễ buồn ngủ lắm. Thứ nhất là mắt mình bị dán vào màn hình máy tính bức xạ nhiều, hoàn cảnh là mắt phải nhìn vô không gian như vậy, không thay đổi được bao nhiêu. Chứ lúc đó đang buồn ngủ, mà Thiện Trang cầm cái khoan bắn đinh, bắt vít này, bắt vít kia, khoan tường, khoan [cái] này, khoan [cái] kia, thì tập trung tâm ghê gớm, tâm liên tục hoạt động, thì Tâm sở Tầm kéo lên. Vì nó phải quan sát đối tượng này kia, và các tâm thức của mình hoạt động liên tục, thì tự nhiên sẽ không hôn trầm. Đó là bí quyết.

Hôn trầm trong khi có thì ra sao? Hôn trầm là sự không khéo trộn, hòa trộn của tâm không thích hợp, và sự chần chừ, lui sụt, sự buồn ngủ, cách buồn ngủ, trạng thái buồn ngủ, sự bần thần, rã rượi, cách rã rượi v.v… sự uể oải, thái độ uể oải, cách uể oải. Những trạng thái như thế gọi là Hôn trầm. Hôn trầm thì ai cũng biết rồi, khỏi phải tả cũng biết.

Bốn ý nghĩa của Tâm sở Hôn trầm: là trạng thái chặn đứng sự siêng năng tiến tới. Tức là nếu hôn trầm (buồn ngủ) thì không siêng năng được, tiến tới không được. Phận sự là bỏ bớt sự siêng năng: tức là nó khiến cho mình lười hơn, hôn trầm thì chỉ muốn ngủ thôi, chứ làm gì. Thành tựu là sự lui sụt: tức là mình bị rớt xuống và nhân tố gần nhất (tức là nhân tố quan trọng nhất) là không khéo tác ý, tức là không Như lý Tác ý. Nghĩa là mình không theo đúng Chánh pháp để tác ý. Tâm mình phải phấn chấn lên, phải suy nghĩ, phải tập trung vào đối tượng, v.v… Còn nếu đang buồn ngủ mà thả tâm, thì ngủ gục luôn.

Còn nếu quý vị rõ [biết] là ta đang làm việc, hoặc có chuyện gì đó [thì không bị buồn ngủ nữa]. Cho nên ai đang buồn ngủ, mà quý vị chọc tức cho người ta nổi điên lên, thì đảm bảo là hết buồn ngủ. Vì người ta sân lên, Tâm sở hoạt động mạnh, [vì] nó có đối tượng dán tới, Tâm sở Tầm mạnh lên.

Cho nên [Tâm sở Hôn trầm] là Tâm sở Biệt cảnh, vì sao? Biệt cảnh ở đây là Biệt cảnh Bất thiện, vì có những lúc có Tâm sở Hôn trầm này, nhưng có lúc không có. Ví dụ như lúc sân thì Thiện Trang đố mà có [Tâm sở] này đó, có ai sân mà buồn ngủ không? Buồn ngủ rồi sân thì có, tức là đang buồn ngủ rồi sân, tại vì đang muốn không ngủ mà nó cứ ngủ. Còn đang sân mà buồn ngủ thì không có. Tức là buồn ngủ, nhưng sự sân kia nhẹ thôi, sân sao khi buồn ngủ. Còn [quý vị] đang nổi điên, nổi khùng, tức lên chửi người ta, thì đố mà [quý vị] buồn ngủ được. Quý vị đi ô tô, đi xe khách thì biết, nhiều khi đang muốn ngủ gục, mà gặp người nào đó bên cạnh làm cho một việc gì đó nổi điên lên, là không ngủ được rồi, đó là quý vị thấy rõ ràng. Hoặc tâm tham, có khi tham thì không hôn trầm được, tham mà quý vị tham ăn, thấy món ăn ngon quá, đang hướng tâm ăn món ngon đó, thì làm sao quý vị buồn ngủ được.

Cho nên [Tâm sở này] gọi là Biệt cảnh. Biệt cảnh là vì có lúc có, có lúc không, tức là nó không cần thiết phải có mặt trong tất cả các Tâm sở Bất thiện. Ví dụ hai trường hợp Thiện Trang lấy là Sân và Tham là không cần, có lúc cần, có lúc không. Tất nhiên có những lúc tham thì vẫn buồn ngủ, [đó] là tham ngủ. Có lúc vừa hôn trầm vừa tham, cũng có; có lúc vừa buồn ngủ vừa sân, cũng có. Vì mình đâu có muốn ngủ. Nhưng có nhiều lúc sân không buồn ngủ, và có nhiều lúc tham không buồn ngủ. Ai tỉnh táo là thấy tham rõ ràng nhất là tham ăn, tham gì đó, v.v… Như có người tham tiền, khi nghe nói được cho mấy đồng, mấy trăm ngàn tiền Việt là tỉnh liền, hết buồn ngủ luôn. Đang buồn ngủ ghê gớm, gục gà gục gật, ông bán vé số tới nói ‘ê! Mày trúng số rồi kìa’ là tỉnh liền, hết buồn ngủ.

Tâm sở Thùy Miên

Đó là Tâm sở Hôn trầm. Còn Thụy miên (hay Thùy miên) là sự không khéo hòa trộn của danh thân Tâm sở, cách không thích hợp công việc của danh thân, trạng thái bệnh hoạn không lành mạnh của Danh pháp Câu sanh. Điều này giống bên trên, nhưng chỉ thay một chữ thôi, ở trên là tâm, ở dưới là Tâm sở. Nghĩa là ở trên các tâm mình hợp tác với nhau, nhưng nó hợp tác không bài bản, hợp tác không được, nghĩa là tâm Tham, tâm Sân, (đang chú ý đến 121 tâm chúng ta chưa học), tâm Thiền v.v… những tâm thấp hoạt động không đúng, không kết hợp với nhau. Còn ở đây là kết hợp bên trong. Tức là trong tâm chúng ta gồm có nhiều Tâm sở, chúng ta có 121 tâm, trong mỗi một tâm có nhiều Tâm sở kết hợp lại, mà chúng ta đang học đến 52 món Tâm sở. Sau này chúng ta học lại, Tâm sở nào kết hợp gồm bao nhiêu Tâm sở, thì Tâm sở đó kết hợp lẫn lộn với nhau, không rõ ràng, hợp tác không tốt, khiến cho tâm mình buồn ngủ, cho nên cũng [bị] Hôn trầm. Hôn trầm này không gọi là Hôn trầm, mà gọi là Thụy miên.

Cho nên chỉ có ngôn ngữ Duy Thức Học mới chia ra rõ như vậy. Duy Thức A Tỳ Đàm cũng chia ra, tâm bên ngoài và Tâm sở bên trong. Tâm là kết quả rồi, còn Tâm sở là nguyên nhân [bên] trong. Nhưng đưa ra thì giống nhau, cũng ngủ gà ngủ gật thôi, cũng buồn ngủ thôi, nhưng buồn ngủ kia có vẻ ngủ ghê hơn, còn buồn ngủ này thì nhẹ hơn, vì nó mới khởi từ tầng Tâm sở thôi. Hôn trầm thì bớt buồn ngủ hơn, vì sự kết hợp của các tâm không hòa hợp, thì đó là thô rồi. Còn Tâm sở kết hợp không được, là Thùy miên, là ngủ luôn đó. [Cho nên] Thùy miên thì ngủ mạnh hơn, là do điều này. Cho nên đây là trạng thái, có thể biểu hiện là trạng thái bạc nhược của tâm.

 ‘Khi một chúng sanh cảm thấy thiếu sự hoạt động hay trí tuệ chậm chạp, chúng sanh ấy bị tác động bởi Thùy miên’. Nghĩa là khi các hoạt động trí tuệ bị chậm chạp lại, khi nào cảm thấy như thế thì thông thường chúng ta bị Thụy miên. Thụy miên này định nghĩa khác, chứ chúng ta cứ nói Hôn trầm, Thụy miên nhiều khi nói chung luôn. Nhưng thực tế Hôn trầm là buồn ngủ, còn Thụy miên cũng buồn ngủ, nhưng chỉ là cảm giác thiếu Tâm sở Trí tuệ, tức là sự hiện diện của trí tuệ không có, mà tâm giống như mờ mờ ảo ảo, chưa ngủ hẳn. Nhưng có đôi khi người ta nói ngược lại, thì chúng ta cũng không quan trọng. Đây là ngôn ngữ A Tỳ Đàm nói theo chiều này, còn có khi người ta nói theo chiều ngược lại, đó là chuyện người ta, còn mình nói theo ngôn ngữ A Tỳ Đàm.

Tiếp theo là sự không khéo hòa trộn của danh thân, danh nghĩa là tinh thần, tinh thần của mình gọi là danh thân; cách không thích hợp với công việc của danh thân (tức là của tinh thần của mình); sự che lấp phần trong, sự rã rượi, bần thần, thái độ rã rượi bần thần, sự buồn ngủ, cách ngáp ngủ, trạng thái ngáp ngủ, ngủ gục, cách ngủ gục, trạng thái ngủ gục. Trạng thái này thông thường sẽ sâu hơn trạng thái kia, ngủ là ngủ ghê hơn, vì nó là bên trong. Còn [Hôn trầm] là bên ngoài, thô, còn [Thụy miên] này vi tế hơn. Cho nên trong bài Duy Thức Tam Thập Tụng nói:

“Ý thức thường hiện khởi.

Trừ sanh Vô Tưởng thiên.

Cập vô tâm nhị Định.

Thụy miên dữ muội tuyệt”

Tức là Ý thức Thứ sáu của mình luôn luôn hoạt động, trừ năm trường hợp: Trường hợp thứ nhất là sanh vào trời Vô Tưởng. Chúng ta đã học qua rồi, người sanh vào trời Vô Tưởng thì ở trạng thái không có tâm, họ giống như pho tượng bằng vàng, to đùng và ngồi im, nằm im hoặc đứng im, tùy vào tư thế của họ mà trước khi họ chết, họ sanh vào đó họ đứng thế nào, ngồi thế nào, nằm thế nào thì lên đó như vậy. Gọi là ‘sanh Vô Tưởng thiên’.

‘Cập vô tâm nhị Định’: tức là vào hai định không có tâm. Hai định không có tâm là: Diệt tận định của A-la-hán, và định tiếp theo là định của trời Vô Tưởng. Định của trời Vô Tưởng là định ngoại đạo. Định của A-la-hán, trong Kinh A Hàm và Kinh Nikaya cũng có hỏi là: “A-la-hán sau khi nhập vào Diệt tận định, thì họ sẽ khởi tâm bằng cách nào để ra khỏi Diệt tận định?” Trong kinh nói, Thiện Trang không nhớ rõ là đức Phật hay vị Tôn giả nào nói: là không có khởi tâm, mà do trước khi họ nhập Diệt tận định, thì họ đã chuẩn bị tư thế đó, cho nên tới lúc đó thì nó như vậy, chứ không phải là họ khởi tâm. Còn khởi tâm thì không phải là Diệt tận định, vì Diệt tận định là vô tâm. Và Vô Tưởng định (định của trời Vô Tưởng) cũng không có tâm.

Hai trường hợp cuối cùng là ‘Thụy miên dữ muội tuyệt’. Thụy miên (Thùy miên) là trạng thái ngủ say, ngủ say này là do Tâm sở chúng ta đang học, kết hợp không được rõ ràng, trong đó thiếu Tâm sở trí tuệ, không bắt được cảnh rõ ràng, tức là Tâm sở Tầm không có. Cho nên ngủ gục, không biết gì luôn. Còn Hôn trầm chỉ là dật dờ dật dưỡng, đơ đơ, người khó chịu, buồn ngủ. Còn Thùy miên là ngủ dữ lắm.

Rồi muội tuyệt là gì? Muội tuyệt là chết giấc, tức là ngất xỉu, lúc đó không biết gì. Ngất xỉu do chấn động nào đó, mà lúc đó tâm giống như dừng lại, Ý thức Thứ sáu dừng lại luôn. Cho nên người ta xỉu, người ta không biết gì hết.

Ở đây, chúng ta hiểu một cái là Tâm sở và một cái là tâm. Tâm thì gọi là Hôn trầm, Tâm sở thì gọi là Thụy miên. Và ý nghĩa của Tâm sở Thụy miên là trạng thái không thích hợp với công việc, phận sự là hạn chế, tâm lộ lần lần, tức là làm cho tâm mình không mở ra bên ngoài, dần dần buồn ngủ và bắt cảnh không được. Thành tựu là sự buồn ngủ. Nguyên nhân quan trọng nhất là không khéo tác ý. Tức là mình không kéo những Tâm sở Tầm lên, không kéo những Tâm sở nào mạnh lên, khiến cho buồn ngủ. Và cả hai Tâm sở Hôn trầm và Tâm sở Thụy miên gọi chung là Hôn phần. Hôn trong chữ hôn nhân, nhân là người, hôn tra trong chữ Hán là mê muội. Cho nên Hôn trầm là [trạng thái] mê mê, mơ mơ màng màng (cho nên hôn nhân là những người mê muội, nếu dịch theo chữ Hán).

Cả hai pháp này là pháp đối nghịch với Tâm sở Cần, Cần tức là sự chủ động, sự siêng năng. Nơi nào có Hôn trầm và Thụy miên, thì nơi đó không có Cần, hai [Tâm sở] này không đi chung với nhau. Tâm sở Cần thì chúng ta học ở bài trước rồi, [Tâm sở Cần này] ở trong sáu Tâm sở Biệt cảnh Tợ tha. Tức là có Cần thì không có hai [Tâm sở] này, hai [Tâm sở] này có, thì không có [Tâm sở] Cần, có nghĩa là Tâm sở này đối nghịch với nhau như ban ngày với ban đêm. Ban đêm thì không [có] ban ngày, ban ngày thì không [có] ban đêm. Chứ nói mặt trời mặt trăng thì không đúng, đôi khi có mặt trời và cũng có mặt trăng luôn.

Tâm sở Hoài nghi

Tâm sở cuối cùng của 10 Tâm sở Biệt cảnh Bất thiện là Hoài nghi. Hoài nghi thì chúng ta quá biết, nhưng chúng ta chưa chắc đã định nghĩa đúng về Hoài nghi. Hoài nghi là sự do dự, sự hoang mang, ngờ vực. Tức là mình do dự, không quyết định rõ ràng, không biết A là A, B là B. Chứ không phải là Hoài nghi là nghi điều gì đó không [thôi], mà là do dự.

Tại sao quý vị do dự? Vì quý vị nghi. Ví dụ quyết định có nên làm việc này hay không, không biết nên làm hay không làm. Thiện Trang nhớ hồi xưa có mấy đứa nhỏ, lấy cây bút gạch ra ‘làm hay không làm’, gạch một hồi bao giờ hết trang giấy đó, cuối cùng nó đếm ‘làm’ thì làm. Đó là do dự. Hoặc đứa nào đang yêu, không biết có nên yêu anh đó hay không, nên lấy cây bút gạch ‘yêu không yêu’, gạch qua gạch lại, hồi xưa Thiện Trang thấy như vậy. Điều đó là do dự.

Hoang mang là không rõ ràng, cho nên mình có sự sợ hãi nhất định. Ngờ vực là nghi ngờ. Chữ ngờ vực có nghĩa là [nghi ngờ] không biết đó có phải vực thẳm hay không. Tức là mình đi con đường đó thì có an toàn hay không, có đúng hay không, đó là hoài nghi.

Tâm sở Hoài nghi có tướng trạng là sự nghi ngờ. Có nhiệm vụ là làm lung lạc lòng tin. Người hoài nghi, nghi ngờ, niềm tin bị lung lay và rớt mất, thì gọi là lung lạc niềm tin. Điều này rõ ràng, ví dụ đang học Pháp sư Tịnh Không chẳng hạn, đang học thầy Thiện Trang chẳng hạn, mà có người nào nói vị đó thế này thế kia, thế là [bắt đầu] nghi ngờ, thì đó là lung lạc niềm tin.

Có biểu hiện là không quyết đoán. Tức là mình đang do dự, nghi ngờ, nên mình đâu có quyết được. Không biết nên hay không nên, không biết nên nghe thầy Thiện Trang nữa hay không, có nên nghe pháp của Pháp sư Tịnh Không nữa hay không, không biết nên làm việc này hay không nên làm, v.v… nghi ngờ, không quyết đoán.

Thực tế đó là Tâm sở Hoài nghi nói chung. Còn hoài nghi trong Phật giáo nói: Hoài nghi là hoài nghi về Phật, về Pháp, về Tăng, về điều mình đã học, hoài nghi về những pháp trong kiếp quá khứ và vị lai, hoài nghi về pháp liên quan đến tương sinh và cuối cùng hoài nghi về Tứ thánh đế. Thực ra sự hoài nghi này khác. Tâm sở Hoài nghi là nói chung chung, còn sự nghi ở đoạn sau Thiện Trang vừa nói là hoài nghi về Phật, về Pháp, về Tăng, về điều mình đã học, hoài nghi về những pháp trong kiếp quá khứ và vị lai, hoài nghi về pháp tương sinh với nhau (tức là cái nào sinh ra cái nào), và cuối cùng hoài nghi về giáo pháp Tứ thánh đế, thì những hoài nghi đó là Kiết sử. Cũng nghi, nhưng là nghi nào. Có nghi thế gian và nghi xuất thế gian. Sự Nghi trong ba Kiết sử, là nghi về xuất thế gian, chính là đoạn vừa rồi Thiện Trang nói, đó mới là Kiết sử.

Còn nếu chúng ta nghi một người nào đó, nghi một việc gì đó, thì đó chỉ là một Tâm sở Nghi. Và khi có [Tâm sở] Nghi này cũng [sẽ] rớt Thiền. Cho nên Sơ thiền mà dứt Nghi, thì Nghi ở đây là nghi sơ sơ thôi, chứ không phải là nghi về Tứ thánh đế, v.v… Tại vì nhiều người đâu cần Tứ thánh đế gì đâu, mà họ vẫn đắc Sơ thiền. Quý vị phải hiểu rõ ràng, chứ không mình nói nghi nhưng là nghi nào, nghi thế gian hay nghi xuất thế gian. Nghi xuất thế gian là nghi thuộc về Kiết sử, nó nằm trong Ngũ hạ phần Kiết sử, phải học rõ ràng như vậy. Nghi về xuất thế gian là nghi về Phật, nghi về Pháp, nghi về Tăng, nghi về giáo pháp mình được học, nghi về pháp tu mình được tu, mình tu đúng chưa, nghi về có kiếp trước, kiếp sau hay không, nghi về Tứ thánh đế, tu như vậy có đúng hay không, rồi nghi về đức Phật nói loài người do cõi trời Phạm Thiên đến. Mình nghi những điều đó, là nghi về Phật, Pháp, Tăng. Nghi đó là nghi xuất thế gian.

Hoặc là học Sinh học mình nghi, mình biết thế giới này theo thuyết tiến hóa Darwin, giọt Côaxecva gì đó, tế bào nhỏ nhỏ hiện lên, một hồi thành cây cối. Rồi nó tiến hóa thành tế bào dương xỉ gì đó v.v… rồi [tiến hóa] thành người v.v…

 Nhưng trong kinh đức Phật không nói vậy, đức Phật nói những cây cối có trên Trái đất này là từ những hạt giống, mà những hạt giống này là từ vũ trụ bay tới. Giả thuyết trong kinh đức Phật nói là: những hạt giống cây cối là từ vũ trụ, bay trong không gian bay tới, cho nên dần dần hình thành nên cái cây. Giải thích này là giải thích của đức Phật. Nếu mình nghi ngờ điều đó thì đó là nghi ngờ về giáo pháp Phật. Điều này thuộc về Kiết sử, Kiết sử Nghi. Do nghi nên mình chưa tin Phật, cho nên sẽ bị chướng ngại trong đường tu, cuối cùng mình chưa đắc Tu-đà-hoàn. Cho nên hoài nghi này mệt lắm.

Hoài nghi chỉ được phá khi nào? Đối với bậc Thánh mới phá hoàn toàn Nghi. Khi nào vào quả Dự lưu, nhập lưu được vào Sơ quả, Sơ quả Tu-đà-hoàn xác nhận không nghi. Cho nên bốn bất hoại tịnh (bốn niềm tin bất hoại) thật ra là Tu-đà-hoàn, là đúng, tại vì hết nghi. Còn Nghi mà trong năm Triền cái, thì Nghi đó là còn nhẹ, nhưng cũng có một phần nghi về pháp tu. Còn Nghi về Tam Bảo thì Nghi này quan trọng, Nghi này nguy hiểm vì nghi về giáo lý. Ví dụ như nghi về giáo lý duyên khởi, về nghiệp, Tam tướng v.v… rất nhiều sự Nghi về kiến thức về Phật pháp. Nếu như chúng ta không hiểu, chúng ta nghi, thì đó là chướng ngại trong tu tập.

Cho nên Nghi là ngăn trở tiến hoá sáng suốt cho giải thoát. Nói chung, nếu chúng ta nghi ngờ về Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng), về giáo pháp, về đường lối tu tập, về những vấn đề xuất thế gian, thì đó là chướng ngại, quý vị không thể sáng suốt trên đường giải thoát được.

Cho nên ráng lên, ai có nghi ngờ gì thì tìm minh sư, thiện hữu mà hỏi, hỏi để giải quyết, để giúp cho phá hết nghi. Thật ra quý vị muốn phá hết nghi, thì ngoài sự tu tập ra, quý vị còn có cách là tìm những người giỏi để giải cho quý vị. Người thông Tam tạng kinh điển giải cho quý vị, thế nào cũng giải xong, quý vị không còn nghi nữa thì quý vị mới tu được.

Cho nên Tâm sở Nghi này mới gọi là trì trệ và do dự. Trì trệ là làm chậm lại con đường giải thoát; do dự là khiến mình không tu tập được, tại vì mình chưa xác định, xác chứng rõ ràng. Ví dụ ở thế gian, người ta nghi một vấn đề đơn giản thôi, định mua một chiếc xe, thì nghi không biết chiếc xe này ngon hay không. Lúc đó người ta do dự, từ từ tìm hiểu đã, mua chiếc này hay mua chiếc kia, v.v… Rồi không biết chuyển địa điểm về nhà mới đó, có tu tập được hay không, làm ăn được hay không v.v… nghi như vậy, thì đó là do dự, lừng chừng.

Hoài nghi có nghĩa là: ‘Cách lừng chừng, thái độ lừng chừng, sự xét thấy lạ lùng khác biệt, không được sự quyết đoán cảnh, sự nhận thấy thành hai lẽ, sự nhận thấy dường như rẽ đường hai (tức là rẽ hai đường), sự không quyết một, sự tính vớ vẩn, suy xét lừng chừng, không thể dứt khoát, sự sần sượng củatâm, sự tràn lan của tánh. Những trạng thái như thế gọi là Hoàinghi triền’.Đó là theo Luận A Tỳ Đàm nói. Nói chung mấy điều đó rõ ràng, mình cứ do dự, không dứt khoát, lừng chừng, thế này thế kia v.v… đó là Nghi. Mà nghi thế gian còn đỡ, còn nghi xuất thế gian là tiêu luôn. Nghi xuất thế gian là không tu được. Cho nên khó lắm!

Cho nên thứ Sáu tuần này, chúng ta có lớp Học Phật Vấn Đáp trong Zoom, quý vị tìm trong video nào cộng tu online, dưới có ghi mã Zoom và mật mã 1234, quý vị vào đó hỏi, [theo giờ Việt Nam] là 20h tối thứ Sáu tuần này, nửa tháng có một lần. Ai có nghi, có thắc mắc gì thì hỏi nha. Học Phật pháp phải rõ, phải sáng tỏ, phải làm, đừng có giấu. Mình nghi mà mình giấu là mình sẽ nghi miết. Còn nếu mình hỏi rồi thì những vấn đề của mình sẽ sáng tỏ, mình sẽ không nghi.

Thiện Trang [có] bí quyết là do đọc nhiều kinh, coi nhiều kinh rồi, nên hầu như vấn đề nào mình cũng thấy đức Phật giải quyết hết. Cho nên không nghi về giáo pháp của Phật, không nghi về Phật pháp, đối với Phật, đối với Pháp, đối với Tăng. Bây giờ ráng thành tựu Thánh giới nữa, là được vào bất hoại tịnh. Bất hoại tịnh đối với Phật, bất hoại tịnh đối với Pháp, bất hoại tịnh đối với Tăng, và thành tựu Thánh giới, thì người đó được đức Phật xác nhận là vào Sơ quả Tu-đà-hoàn, hoặc ít nhất là vào được Tùy tín hành, thì mình yên tâm. Cho nên [quý vị] ráng làm điều đó, ráng làm sao cho thành tựu.

Hồi xưa thì mình có nghi, [vì] hồi xưa học, có những điều Thiện Trang cảm thấy không thông, nhưng sau này Thiện Trang học Kinh Nikaya và Kinh A Hàm, đọc rất nhiều kinh điển Đại thừa, thì Thiện Trang thấy có gì thì đức Phật nói hết rồi. Chỉ có mấy ông thầy, hoặc mấy người giảng đời sau giảng tầm bậy, khiến mình nghi thôi, chứ căn cứ vào đó thì mình không nghi được. Tại sao [cùng một] vấn đề đó mà người này giảng thế này, người kia giảng thế kia. Hoặc chính vị đó, lúc thì giảng thế này, lúc thì giảng thế kia, tại sao vậy? Tại vì người ta không rõ, người ta không xác chứng được. Bởi vì chân lý chỉ có một thôi, còn tương tợ chân lý có nhiều. Cho nên lúc trước người ta tu tới đó, người ta thấy đến đó, nên họ nói đến đó. Lúc sau người ta tu khá hơn, thì người ta nói [khác], nhưng đó vẫn chưa phải là chân lý. Vì đó không phải là tương ứng với Phật, tương ứng với Phật là khớp với Phật. Khớp với Phật là Phật nói một vấn đề chỉ một kiểu, một lần.

Quý vị có thể tìm thấy điều này trong tất cả kinh điển. Thiện Trang thấy trong tất cả kinh điển, đức Phật chỉ nói một kiểu. Hoặc là vấn đề đó, khi trong bộ kinh này đức Phật từ chối không nói, [nhưng] bộ kinh khác Phật nói. Thiện Trang thấy không có vụ đảo qua đảo lại kiểu rắc rối, còn ai đảo qua đảo lại thì Thiện Trang thấy hình như có vấn đề. Đó là Thiện Trang khẳng định sau khi học kinh. Vì Thiện Trang đọc rất nhiều kinh rồi, cho nên tóm lại mấy ông đảo qua đảo lại là do mấy ông thôi, không phải do Phật. Ông không hiểu cho nên ông đảo, còn lại Phật chỉ nói một lần thôi.

Cho nên Kinh Lăng Nghiêm mới nói là: “Thập phương Bạc Già Phạm. Nhất lộ Niết-Bàn môn”. Tức là đức Thế Tôn (đức Phật) trong mười phương, chỉ có một con đường, một cửa vào Niết-Bàn thôi, không còn con đường nào khác. Tất cả các Pháp môn, suy xét cho cùng cũng chỉ là một con đường. Cho nên mình mà nói con đường này ngon, con đường kia không ngon là không đúng. Tất cả con đường nào cũng dẫn về đó. Tu bất cứ pháp nào cũng thành tựu, nếu như mình tu đúng thì tới đó. Giống như các con đường nhỏ trong làng, mỗi nhà mỗi cửa, mỗi lối đi, mỗi con đường dẫn ra, nhưng cuối cùng rồi cũng dẫn ra đường làng. Nhiều làng có nhiều con đường, nhưng một hồi cũng dẫn vào con đường chính của vùng đó, rồi cuối cùng cũng ra quốc lộ, rồi cuối cùng cũng đi ra đường lớn thôi.

Nói [theo] ngôn ngữ của nhà Phật cho dễ là: Từ bao nhiêu con suối, con rạch, con mương, nước chảy từ đâu, từng giọt trên cây, từ trên lá cỏ, từ bất cứ thứ gì. Đến một lúc nào đó rồi sẽ chảy vào dòng suối, và dòng suối đó ra sông. Dòng sông đó gọi là nhập lưu, và dòng sông đó chắc chắn sẽ đổ ra biển. Và cuối cùng nó chỉ ra biển lớn mà thôi. Cho nên đạo Phật cũng vậy, đức Phật khẳng định dù có mọi nẻo đường, dù con đường nào, cho dù quý vị đi vào Phật pháp bằng con đường nào, thì cuối cùng chỉ có một con đường là đường giải thoát, là đường giác ngộ, không có con đường nào khác. Nếu quý vị tu tập đúng, đi đúng đường, quý vị có muốn đắc quả, hay không muốn đắc quả, thì quý vị vẫn đắc quả. Vì quý vị đi đúng đường đó, quý vị tu đúng đường đó. Còn dù quý vị muốn đắc quả, dù ham, dù phát nguyện dữ lắm, mà tu không đúng, thì đây là quý vị đi ngược đường với con đường giải thoát. Có nghĩa là không bao giờ có chuyện đó, không đắc đạo. Nên nhớ như vậy!

Cho nên Chánh kiến là quan trọng, mà Chánh kiến phải xây dựng trên nền tảng kinh điển. Thiện Trang với kinh nghiệm học Phật pháp 15 năm qua, từ năm 2010 đến 2025, coi như là sang năm thứ 16 rồi. Thiện Trang xin khuyên quý vị muốn có Chánh kiến thì quý vị tìm những người giảng theo hoàn toàn trong kinh, trích dẫn trong kinh. Chứ nếu giảng theo ý họ thì quý vị phải kiểm tra [đối chiếu] lại trong kinh. Kinh nào? Dễ nhất là Kinh A Hàm, quý vị coi giùm bốn bộ Kinh A Hàm, có thời gian thì coi Kinh Nikaya, hai bộ đó như nhau thôi. Quý vị có thời gian nữa thì coi giùm Kinh Đại Bảo Tích, Kinh Lăng Nghiêm, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, kinh nào cũng được, kinh nào cũng Phật thuyết, cũng vậy thôi. Và quý vị thấy tất cả cũng chỉ có một lối giống nhau, tất cả đều giống, không khác. Thiện Trang thấy không khác, đức Phật luôn luôn thống nhất, giáo pháp của Phật luôn luôn nhất quán từ đầu đến cuối. Còn mình nói thế này thế kia, đảo qua đảo lại là do mình không hiểu. Còn khi hiểu rồi thì chỉ có một con đường, một lối thôi. Còn các phương pháp vào lối đó thì có thể chỉ nhiều cách, nhưng vào chân lý chỉ có một.

Cho nên là quý vị cố gắng nha! Khi mình nhận ra được như vậy, thì mình mới không nghi giáo pháp được. Không nghi thì mới thành tựu, cho nên điều này là Tâm sở Hoài nghi. Chỉ khi nào quý vị chứng thánh quả Tu-đà-hoàn thì mới hết.

Tâm sở Hoài nghi chỉ có mặt trong mỗi tâm Si, tương ưng với hoài nghi, nhất định phải có. Tức là khi có Si, thì mới có hoài nghi, có hoài nghi thì chắc chắn có Si đi theo. Nhân chính là do quý vị không khéo tác ý (không Như lý Tác ý). Điều này thì rõ ràng, trạng thái, tư cách hoài nghi, phận sự làm cho rung động, lo sợ đối với cảnh. Quý vị còn lo sợ đối với cảnh, là do quý vị còn nghi.

Cho nên người tu hành tại sao sợ cảnh, tại sao ngồi thiền, niệm Phật một hồi sợ ma, sợ này sợ kia, gặp cảnh giới gì cũng sợ? Vì quý vị còn nghi. Vì sao quý vị nghi? Bởi vì quý vị chưa hiểu rõ giáo pháp, còn người hiểu rõ rồi thì có gì đâu. Cảnh trong định [dù có] thật giả gì thì cũng kệ. Sư Minh Tuệ nói trong định có những cảnh thật, cũng có những cảnh không phải thật. Đúng rồi! Là như vậy đó.

Và thành tựu [của Tâm sở Nghi] là sự không quyết đoán, lừng chừng, do dự. Cho nên người học có Chánh kiến thì họ không nghi, và không nghi thì mới thành tựu. Tâm sở này gọi là Tâm sở Biệt cảnh, vì có lúc có, có lúc không có. Ví dụ lúc sân, lúc sân là nổi gió nóng, nổi nóng lên quyết đoán người đó là như thế rồi, cho nên mình đâu có nghi nhiều về việc đó, nên là mình mới sân, gọi là Thắng giải.

Nhưng có lúc sân cũng có nghi, đôi khi nghi gì đó nên mình mới sân. Vì mình không rõ cho nên mình mới sân, thì sân cũng có. Rồi có lúc tham cho nên không hoài nghi, ví dụ mình xác định là mình thích món chè, thích ăn chè quá, mình biết chắc là chè rồi, thì mình đâu còn hoài nghi nữa. Còn nếu nghi là [nghĩ] không biết chè này nấu có ổn không nữa, có đường hóa học hay không, họ bỏ này kia vô ăn chắc đau bụng, lúc này chần chừ, do dự, thì tâm đó là không thể tham được. Còn lúc quý vị tham quá rồi, thấy món chè ngon quá, ăn thôi, họ bỏ thứ gì cũng kệ, không quan tâm nữa, thì việc đó không nghi.

Quý vị thấy không? [Tâm sở Hoài nghi] là Tâm sở Biệt cảnh là như vậy, nó hoàn toàn là như vậy. Cho nên Tâm sở Hoài nghi này phải tới Sơ đạo (tức là Sơ quả Tu-đà-hoàn) thì mới dứt được. Thật ra mình dứt Nghi rồi thì mới vào được Sơ quả, nhân hết Nghi là vào Sơ quả, mà vào Sơ quả rồi thì chắc chắn hết nghi. Mình phải khẳng định như vậy, chứ không phải vào Sơ quả rồi là hết nghi. Cho nên một người vào Sơ quả thì chắc chắn người ta không nghi.

Cho nên đức Phật nói Tùy tín hành, thực ra là họ chưa rõ [Phật pháp], địa vị trong bốn địa vị hôm bữa Thiện Trang chia sẻ, quý vị coi kỹ lại đi. Tùy tín hành là chưa rõ đối với Phật pháp một cách [rốt ráo] đâu, nhưng họ tin một cách tuyệt đối, họ vào bằng niềm tin thôi, cắm đầu mà tin. Cho nên nhờ vậy mà họ thành tựu Kiến đế. Kiến đế là sự thấy chính xác.

Quý vị nên nhớ Sơ quả Tu-đà-hoàn là Kiến đế. Kiến đế là thấy được sự thật [đối với] giáo pháp Tứ đế, thấy được một phần lớn. Và [nhờ] thấy được sự thật cho nên hết nghi. Do mình thân chứng nên mình hết nghi, hết nghi đối với Phật, Pháp, Tăng và Thánh giới, hết nghi đối với giáo pháp, nhớ vậy.

Còn quả vị A-la-hán thì [cao] hơn nữa. Quý vị thấy A-la-hán là thông luôn Tứ đế, quả vị A-la-hán cao hơn. A-la-hán không chỉ thấy Kiến đế, mà thân chứng hoàn toàn Kiến đế đó. Tức là thân chứng được Tứ diệu đế và 12 nhân duyên. Cho nên các ngài thấy được rõ ràng, giống như thấy được trái xoài (trái Amla) trong lòng bàn tay. Nhưng các ngài vẫn còn cách Phật rất xa, vì đức Như Lai có 10 lực và 4 Vô úy, chỉ có đức Như Lai mới có Thập lực. Cho nên đức Như Lai mới biết được tất cả sự việc của người này, người kia trong chúng sanh, biết được mọi thứ. Cho nên đức Như Lai mới gọi là toàn giác.

Cho nên từ A-la-hán mà lên tới Phật là một con đường xa xôi vời vợi. Cho nên đức Phật mới yêu cầu chúng ta là ráng ra khỏi sanh tử trước đã, lên con đường thành Phật còn xa. Chúng ta hiểu rõ rồi, thì thấy ba tầng bậc đó rất khác. Và chúng ta lại còn tệ hơn nữa, vì chúng ta chưa được ba tầng bậc đó, cho nên chúng ta phải cố gắng. Mỗi lần chúng ta học được một chút, [theo] năm tháng dần dần tích lũy đủ công phu thì tự nhiên bừng ra. Người ta gọi là: ‘tu nhất kiếp, ngộ nhất thời’. Quý vị yên tâm đi, quý vị cứ nghe như vậy, tu như vậy, cứ ở trong giáo pháp mà mài dũa, thì “có công mài sắt, có ngày thành kim”. Chúng ta mài từ vô lượng kiếp, sắp thành kim rồi đó. Cho nên ráng thêm chút nữa là thành công.

Chúc quý vị luôn luôn an lạc, hẹn quý vị bữa khác, bữa nay thời gian đã hết. Mời quý vị chúng ta cùng hồi hướng.

“Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ

Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn

Pháp môn vô lượng thệ nguyện học

Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”.

“Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử cùng chúng sanh

Đều trọn thành Phật đạo”.

A Mi Đà Phật!