TỊNH
ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2018 (giảng lần thứ 5)
TẬP
7
Tịnh Không Lão
Pháp sư chủ giảng.
Giảng ngày: 8 tháng 3 năm 2018
Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông.
Dịch giả:
Thích Thiện Trang.
Kính chào chư vị Pháp sư, quý vị đồng
học. Hôm nay chúng ta tiếp tục học tập. Trước tiên mời mọi người cùng tôi
quy y Tam-Bảo: A-xà-lê tồn niệm, ngã đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn,
quy y Phật Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng
Già, chư chúng trung tôn (Bạch Thầy
A-xà-lê thương xót! Con đệ tử Diệu Âm, kể từ hôm nay, cho đến suốt đời, con xin
quy y Phật, lưỡng túc trung tôn; con xin quy y Pháp, ly dục trung tôn; con xin
quy y Tăng, chư chúng trung tôn.) (3 lần)
Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 141, đếm ngược hàng thứ bảy,
tìm đến chỗ có số 7 trong dấu ngoặc, 清初彭紹升居士曰“Thanh sơ Bành Thiệu Thăng Cư sĩ viết”(Cư sĩ Bành Thiệu Thăng vào đầu thời nhà
Thanh nói rằng), bắt đầu xem từ đó:
Thời gian vừa qua, tôi sang Singapore và Malaysia, đã
đón năm mới tại Malaysia. Sau khi trở về, quý vị đồng học rất quan tâm, là có
giảng tiếp Kinh Vô Lượng Thọ nữa không? Tôi nói: chúng tôi sẽ giảng tiếp, nhưng
thời gian có thể dài một chút, bởi vì sao? Hôm nay quý vị đã nhìn thấy rồi, tôi
đã đeo mắt kính rồi, đây là lần đầu tiên. Nếu không đeo kính, thì chữ trong quyển
kinh này không nhìn thấy rõ, chỉ thấy lờ mờ, nghĩa là tôi già rồi, già thật rồi,
thể lực suy rồi, thời gian nghỉ ngơi cần dài hơn, những tình trạng này của người
già đã nhìn thấy trên thân thể tôi, nên không chịu già cũng không được. Vì vậy
việc giảng kinh sau này, sẽ giảng chầm chậm lại, không vội vàng. Phần nhiều thời
gian tôi sẽ đều từ chối hết, khước từ giảng kinh, diễn giảng cũng khước từ
luôn, ngay cả những việc viết lời tựa hết thảy tôi cũng không làm nữa, quý vị đồng
học nhìn thấy tôi, cảm thấy sức khỏe khí sắc của tôi vẫn không tệ, còn tốt. Nhưng
trên thực tế so với đầu năm đã có khác biệt, nói chi là so với năm ngoái. Đây
là một thông tin mà thượng thiên phát đến cho tôi. Thông tin này rất là quan trọng,
tức là con người cần nên biết con đường phía trước cần phải đi ra sao, học Phật
67 năm, giảng kinh 60 năm, có nắm chắc vãng sanh hay không? Không nắm chắc. Phải
làm sao? Lão sư đã dạy tôi nhìn thấu, buông xuống. Ngày nay không cho phép tôi
không nhìn thấu, không cho phép tôi không buông xuống, buông xuống triệt để, chỉ
một bộ kinh, một câu Phật hiệu, bảo đảm tôi vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, tôi
sẽ không uổng phí đời này, hiện nay sẽ làm chứng cho đại chúng đồng tu.
Pháp
môn này vô cùng thù thắng, Niệm Lão đã nói cho chúng ta ở lời nói đầu, chúng ta
hiện đang học đoạn lớn này, lời nói đầu ngài đã nói 10 đoạn, hôm nay chúng ta
xem đoạn thứ bảy, chữ chữ câu câu đều vô cùng quan trọng, một chữ cũng không thể
lơ là. Mở đầu đoạn này, Niệm Lão trích dẫn lời của Cư sĩ Bành Thiệu Thăng: 此經闡揚者少,實以無善本故“Thử kinh xiển dương giả thiểu, thật dĩ vô thiện bản cố”(kinh này ít được người xiển dương, thật là
vì chưa có thiện bản). Từ xưa đến nay, rất nhiều người tu học Tịnh-tông dựa
vào Kinh A Di Đà, người vãng sanh cũng không ít; người nương vào Kinh Vô Lượng
Thọ tu học không nhiều, rất ít nhìn thấy, nguyên nhân vì sao? Nguyên nhân là
chưa có thiện bản. 蓮公老人悲智雙運,宗說俱通,圓融顯密禪淨於一心,專宏持名念佛攝萬德。冀此無上寶典,饒益當來,乃繼前賢,重行會集。屏棄萬緣,掩關三載,淨壇結界,冥心孤詣,稿經十易,方慶經成。蒙慧明老和尚印證,慈舟專講於濟南,并親為科判。梅公於中廣播講此經,稱為最善之本。且在序文中讚曰:精當明確,鑿然有據,無一義不在原譯之中,無一句溢出本經之外,艱澀沉晦使之爽朗,繁複冗蔓歸於簡潔,凌亂俾成整嚴,闕疏悉令圓滿,必期有美皆備,無諦不收…雖欲不謂之善本不可得也。是此本問世以來,講說讚揚,流播中外,見者聞者,歡喜信受,行見大經光明,常照世間,無量壽經之善本,於茲慶現,此實為希有難逢之大事因緣也“Liên Công Lão Nhân bi trí song vận,
tông thuyết câu thông, viên dung hiển mật
thiền tịnh ư nhất tâm, chuyên hoằng trì danh niệm Phật nhiếp vạn đức. Ký thử vô
thượng bảo điển, nhiêu ích đương lai, nãi kế tiền hiền, trùng hành hội tập.
Bính khí vạn duyên, yểm quan tam tải, tịnh đàn kiết giới, minh tâm cô nghệ, cảo
kinh thập dị, phương khánh kinh thành. Mông Huệ Minh Lão Hòa thượng ấn chứng, Từ
Châu chuyên giảng ư Tế Nam, tịnh thân vi khoa phán. Mai Công ư trung quảng bá
giảng thử kinh, xưng vi tối thiện chi bản. Thả tại tự văn trung tán viết: tinh
đáng minh xác, tạc nhiên hữu cứ, vô nhất nghĩa bất tại nguyên dịch chi trung, vô
nhất cú dật xuất bản kinh chi ngoại, gian sáp trầm hối sử
chi sảng lãng, phồn phức nhũng mạn quy ư nhũng khiết, lăng loạn tỷ thành chỉnh
nghiêm, khuyết sơ tất linh viên mãn,
tất kỳ hữu mỹ giai bị, vô đế bất thu… Tuy dục bất vị chi thiện bổn bất khả đắc dã. Thị
thử bản vấn thế dĩ lai, giảng thuyết tán dương, lưu bá trung ngoại, kiến giả
văn giả, hoan hỷ tín thọ, hành kiến Đại kinh quang minh, thường chiếu thế gian,
Vô Lượng Thọ Kinh chi thiện bản, ư từ khánh hiện, thử thật vi hy hữu nan phùng
chi đại sự nhân duyên dã.” (Ngài Hạ Liên Cư đủ đức từ bi trí huệ, thông cả tông lẫn giáo, viên dung Hiển Mật Thiền
Tịnh đều đến nhất tâm, chuyên sâu trì danh niệm Phật nhiếp vạn đức. Mong mỏi vô thượng bảo điển này,
làm lợi ích cho tương lai, nên tiếp nối bậc hiền thuở trước, lại làm hội tập.
Buông xuống vạn duyên, đóng cửa ba năm, tịnh đàn kiết giới, âm thầm chuyên tâm
thực hiện, sửa bản thảo mười lần mới hoàn thành. Bản hội tập này được Lão Hòa
thượng Huệ Minh ấn chứng, ngài Từ Châu chuyên giảng ở Tế Nam, và cũng đích thân
làm khoa phán. Lúc giảng kinh này trên đài phát thanh, ngài Mai Quang Hy đã
khen là thiện bản nhất. Vả lại trong lời tựa ngài còn khen rằng: tinh yếu rõ
ràng chính xác, thật có căn cứ, không một nghĩa nào mà không có trong nguyên bản
dịch, không một câu nào vượt ngoài nguyên văn kinh, làm sáng tỏ những chỗ trúc
trắc tối nghĩa, làm đơn giản gọn gàng những chỗ phức tạp rườm rà, khiến
chỗ luộm thuộm biến thành nghiêm chỉnh, chỗ thiếu sót trở thành viên mãn, tất
cả đều thành tốt đẹp hoàn chỉnh, không có nghĩa lý nào mà chẳng bao gồm…dù muốn
chê không phải là thiện bản cũng không được. Nên từ khi bản hội tập ra đời đến
nay, được giảng giải khen ngợi, lưu truyền rộng khắp trong và ngoài nước, kẻ thấy
người nghe đều hoan hỷ tin nhận, mừng được thấy quang minh của Ðại kinh thường
chiếu thế gian, thiện bản của Kinh Vô Lượng Thọ nay đã xuất hiện, đây thật là đại
sự nhân duyên hy hữu khó gặp).
Lời
của Niệm Lão nói trong đoạn này, từ xưa đến nay, vì sao rất ít người tu Tịnh-độ
nương vào Kinh Vô Lượng Thọ? Bởi vì Kinh Vô Lượng Thọ có tất cả năm loại nguyên
bản dịch, đó là đang hiện có, còn trong mục lục của Đại tạng kinh, chúng ta thấy
có tất cả 12 loại bản dịch, nhưng đã thất truyền bảy bản, hiện nay chỉ còn năm
bản, năm loại bản đó được phiên dịch ở Trung Hoa, trong văn kinh có rất nhiều
nghi vấn, đoạn mà chúng ta mới vừa đọc, đã nêu ra rất nhiều nghi vấn, cho nên bộ
kinh này thiếu khuyết thiện bản. Mãi đến khi Lão Cư sĩ Hạ Liên Cư đã dùng thời
gian 10 năm, đem năm loại nguyên bản dịch lại làm mới thành một bản hội tập, tức
là dung hội xuyên suốt năm loại bản dịch đó, để viết lại thành bộ mới, chính là
bộ kinh này, Lão Cư sĩ Hạ Liên Cư đã mất thời gian 10 năm, nên chúng ta thật sự
hiểu được, mới có thể sanh tâm hoan hỷ thật sự. Ngài Hạ Liên Cư khích lệ chúng
ta học bản kinh này. Bản kinh này đem toàn bộ những chỗ nghi hoặc của Tổ sư Đại
đức và thiện tri thức trong quá khứ, đều giải trừ hết rồi, là cống hiến vô cùng
lớn đối với Tịnh-tông! Cũng có thể nói, người tu tập Tịnh-tông, cầu sanh Tịnh-độ
thời này, có phước báo rất lớn, nên mới gặp được bản hội tập của ngài Hạ Liên
Cư. Ngài Hạ Liên Cư là người thế nào thì chúng ta không cần phải hỏi, vì có thể
khẳng định ngài là Phật Bồ-tát tái lai. Nếu không phải là Phật Bồ-tát tái lai, thì
không có cách nào hội tập thành bộ Đại kinh hoàn chỉnh đến như vậy. Khẳng định
bộ kinh này là lời mà Phật đã nói trong Kinh, pháp vận của Phật là 12 ngàn năm,
sau 12 ngàn năm ấy, thì Kinh điển của Thế tôn dần dần đều sẽ mất đi, sẽ thất
truyền ở thế gian này, không còn người học nữa, bộ kinh mất đi sau cùng chính
là bộ kinh này, bộ kinh này là tiêu mất sau cùng. Vì chúng sanh nghiệp chướng nặng,
nghiệp chướng là do tích lũy, thời kỳ mạt pháp 10 ngàn năm, nếu chúng ta tích
lũy nghiệp chướng trong 10 ngàn năm đó, thì phiền phức lớn rồi! Hy vọng là mọi
người tích lũy công đức, tiêu trừ nghiệp chướng, vậy thì đúng rồi.
Tôi làm tấm gương cho mọi người. Thời
trẻ tôi không nhận thức đối với Tịnh-tông, tôi học Phật là do thầy Phương giới
thiệu, tôi học Triết học với ngài, ngài đã vì tôi giảng một bộ Triết học khái
luận, phần sau cùng là Triết học Kinh Phật. Thời tuổi trẻ đó, tôi cho rằng tôn
giáo đều là mê tín, Phật giáo là tôn giáo, là mê tín, trong đó làm sao có Triết
học được? Thầy nói với tôi: anh tuổi còn trẻ, anh không biết, Thích Ca Mâu Ni
Phật là nhà Triết học vĩ đại nhất thế giới, học Phật là hưởng thụ tối cao của đời
người. Những lời ấy từ trước đến bấy giờ tôi chưa từng nghe qua, nhưng tôi có
lòng tin đối với thầy Phương, thầy không có gạt tôi, ngài sẽ đem những gì tốt nhất
truyền cho tôi, nên tôi không có nghi ngờ, mà đã hoàn toàn tiếp nhận. Sau sự tiếp
nhận đó, thì duyên rất thù thắng, được Phật Bồ-tát an bài, sau đó khiến tôi có
duyên thân cận với Đại sư Chương Gia, Đại sư Chương Gia giúp tôi xây dựng chắc
nền tảng. Còn Lão sư Lý truyền Kinh giáo cho tôi. Tôi đối với Kinh giáo vô cùng
ưa thích, loại nào cũng muốn học, quý vị cần biết rằng, tất cả Kinh giáo hội tập
lại là một bộ Đại Tạng Kinh, thầy đã nói với tôi: dù cho con sống trên một trăm
tuổi cũng học không hết được. Đó là sự thật, không phải là giả. Chính điều này nên
tôi phải tuyển chọn Kinh điển rồi, tôi chọn kinh điển nào? Là Hoa Nghiêm, Pháp
Hoa, Lăng Nghiêm, Bát Nhã, Pháp Tướng, tôi chọn lựa những Kinh điển ấy, ưa
thích ở phương diện đó, đem việc liễu sanh tử, thoát tam giới quên mất rồi. Lão
sư Lý đã cảnh tỉnh tôi, nếu như không vãng sanh được, thì sự học của ông đời
này uổng công rồi. Tại sao vậy? Vì đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh mà quý
vị không làm được, quả báo của không làm được ở tại đâu? Chứng quả cũng không đạt
được, đừng nói chi đến quả vị của Bồ-tát Đại-thừa, chỉ Tiểu-thừa Tu-đà-hoàn thôi
cũng không có phần rồi, vậy sau khi chết sẽ đi về đâu? Chỗ tốt, tính cũng không
tệ, là thiên đạo. Thiên đạo, thì dục giới có sáu tầng, sắc giới có 18 tầng, đó
là nơi chúng ta đến, tuy thọ mạng dài, nhưng không thoát được lục đạo luân hồi,
thì vẫn lăn lộn trong lục đạo luân hồi thôi. Vấn đề này rất nghiêm trọng, không
phải là nói đùa đâu! Ở trong Phật pháp, con đường nào dễ đi nhất, mà chúng ta
có thể đi thông được? Chúng ta đã học bộ Kinh này hốt nhiên đại ngộ, bộ Kinh
này dạy chúng ta, tín, nguyện, trì danh thì có thể vãng sanh, điều kiện này đơn
giản, chỉ có bốn chữ thôi. Điều kiện thứ nhất, thật sự tin tưởng phương tây có
thế giới Cực Lạc, thế giới Cực Lạc có A Di Đà Phật, là thật, không phải giả. Điều
kiện thứ hai, phát nguyện cầu sanh, vì đó là sự thật, nên tôi phát nguyện cầu
sanh Tịnh-độ, hy vọng tương lai lúc mạng chung, A Di Đà Phật đến tiếp dẫn về thế
giới Cực Lạc. Tin phải thật, nguyện phải thiết, phải khẩn thiết, tôi không thể
không đến thế giới Cực Lạc, quyết định không thay đổi. Câu câu mà lão sư nói với
tôi, cũng như Tổ sư Đại đức giảng cho tôi, đều là lời thật.
Khó được, mấy năm trước Lão Hòa thượng Hải Hiền
đã làm chứng minh cho chúng ta. Ngài không biết chữ, 20 tuổi xuất gia, sư phụ
truyền cho ngài một câu Phật hiệu: Nam Mô A Di Đà Phật, bảo ngài niệm một mạch
không ngừng. Ngài thật thà, nghe lời, thật làm. Sư phụ lại dặn dò ngài, khi tỏ
tường rồi thì không được nói lung tung, không được nói ra. Tôi tin tưởng lời
này, lúc sư phụ dặn dò ngài, thì ngài không biết, dần dần công phu tu hành của
ngài đắc lực rồi, thì ngài hiểu rõ. Người thường giữ quy củ, thì một câu Phật
hiệu niệm đến cùng, hỏi điều gì tôi cũng không biết, tôi chỉ biết có Thế Giới Cực
Lạc, tôi chỉ biết nơi đó có A Di Đà Phật, Ngài ở tại đó giáo hóa chúng sanh,
tôi mong muốn đến Thế Giới Cực Lạc để học tập, tôi mong muốn đến Thế Giới Cực Lạc
để nương tựa A Di Đà Phật, A Di Đà Phật đại từ đại bi, nhất định sẽ đến tiếp dẫn.
Tôi đã tiếp nhận, tôi đã tiếp nhận lúc
nào? Năm 85 tuổi tiếp nhận, năm nay là 92 tuổi rồi. Vì sao tôi tiếp nhận? Vì
suy xét những pháp môn khác, 84 ngàn pháp môn, thì pháp môn nào cũng phải đoạn
phiền não, đoạn tập khí, đều cần công phu của giới định huệ, mà tôi đều không
có, thì làm sao đây? Nghĩ đi nghĩ lại, nên theo con đường của Lão Hòa thượng Hải
Hiền, ngài đã đi qua rồi, tôi cũng có thể đi được. Cho nên tôi buông xuống vạn
duyên, tất cả đại Kinh đại luận đều không giảng nữa, phát nguyện: chỉ giảng một
bộ Kinh Vô Lượng Thọ hội tập này, hiện nay tôi học một bộ Kinh này, tôi chỉ giảng
một bộ kinh này thôi.
Với bộ Kinh này tôi cũng tìm được một
vị thầy, ngài đối với tôi vô cùng thương yêu che chở, ngài lớn hơn tôi mười mấy
tuổi, vô cùng ái hộ, cũng rất tán thán, xem tôi như học đệ, nhưng tôi không
dám, tôi học chú giải của ngài, chính là Lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, tôi xác nhận
ngài là thầy của tôi, ngài vì tôi mà giảng một bộ Kinh Vô Lượng Thọ, ngài chú
giải tức là vì tôi mà giảng, ngài khuyên tôi: tử tận thâu tâm, nhất môn thâm nhập,
buông xuống vạn duyên, quyết tâm sanh Thế Giới Cực Lạc.
Chúng ta tiếp tục xem phần
sau đoạn chú giải này của Niệm Lão, ở trang 142 hàng thứ ba, 但此殊勝第一之淨宗寶典,竟在我國大藏中塵封一千餘年“Đản
thử thù thắng đệ nhất chi Tịnh-tông bảo điển, cánh tại ngã quốc Đại Tạng trung
trần phong nhất thiên dư niên”(Nhưng bảo điển bậc nhất của Tịnh-tông này lại
bị bụi phủ trong Đại Tạng Kinh nước ta đã hơn một ngàn năm). Hiện nay chúng
ta rõ ràng rồi, Kinh Vô Lượng Thọ, không chỉ là bảo điển của Tịnh-tông, mà còn
là Kinh quan trọng nhất trong ba Kinh Tịnh-độ. Chúng ta đạt được bản hội tập
này, đạt được chú giải của Niệm Lão, đã giúp chúng ta giác ngộ, giúp chúng ta
thức tỉnh, làm thật sáng tỏ rồi, vãng sanh Thế Giới Cực Lạc, hiện nay người đi du
lịch nói là hộ chiếu, chúng ta nắm được hộ chiếu thông hành này rồi, hộ chiếu
thông hành là gì? Chính là bộ Vô Lượng Thọ Kinh Khoa Chú này, là sự thật, không
phải giả. Ngài xem tôi là đồng học, nhưng tôi xem ngài là thầy của tôi, từ mấy
năm nay, tôi đều dụng công phu ở bộ Kinh này.
Trong
quá khứ Kinh này không được lưu thông rộng, nguyên nhân là vì có năm loại bản dịch,
mà năm bản dịch đó hoặc chi tiết hoặc đại lược, và còn sai biệt nhau rất nhiều,
例如彌陀大願“lệ
như Di Đà đại nguyện” (chẳng hạn như đại nguyện của Đức Di Đà),
đây là cử ra ví dụ để nói, 在魏唐兩譯是四十八願,在漢吳兩種譯本是廿四願,在宋譯則為三十六願“tại
Ngụy Đường lưỡng dịch thị tứ thập bát nguyện, tại Hán Ngô lưỡng chủng dịch bổn
thị nhập tứ nguyện, tại Tống dịch tắc vi tam thập lục nguyện”(hai bản dịch
thời nhà Ngụy và nhà Đường là 48 nguyện, hai bản dịch thời nhà Hán và nhà Ngô
là 24 nguyện, còn bản dịch thời Tống thì lại 36 nguyện). Đó là phần quan trọng
nhất của bộ Kinh, mà vẫn không giống nhau, vì vậy khiến cho người sơ học sanh ra
hoài nghi, tôi nên dựa vào bản kinh nào thì tốt? Cho nên đem Kinh Vô Lượng Thọ
từ bỏ, đều đi dựa vào tiểu bản Kinh A Di Đà. Tiểu bản Kinh A Di Đà chỉ có hai
loại bản dịch, chúng ta thường dựa vào bản dịch của ngài Cưu Ma La Thập, ngoài
ra còn có bản dịch của Đại sư Huyền Trang. Với người học Tịnh-độ, thì những
Kinh luận đó đều phải đọc, phải biết, sau đó chọn lựa một bộ trong đó để chuyên
tu. Quá khứ thì tôi chọn Kinh A Di Đà, Sớ Sao, Yếu Giải của Kinh A Di Đà, và Viên Trung Sao, những bộ đó tôi
đều học và giảng qua, khi tôi dựa vào Sớ Sao của Đại sư Liên Trì, tôi nhớ hình
như tôi đã giảng hơn 300 giờ, khi nghe tôi giảng bộ đó, mọi người đều cảm động!
Đoạn
này vì chúng ta mà nói ra, tại sao cổ nhân không chọn bộ Kinh này, là vì chưa
có thiện bản. Chúng ta đem đoạn văn này đọc qua: 遂使初心學者,專持一譯,難明深旨;遍讀五種,又感艱難“Toại sử
sơ tâm học giả, chuyên trì nhất dịch, nan minh thâm chỉ; biến độc ngũ chủng, hựu
cảm gian nan”(Khiến cho người mới học,
chuyên trì một bản dịch, sẽ khó thấu hiểu tông chỉ sâu xa; nếu đọc trọn năm bản
dịch, sẽ cảm thấy khó khăn), nếu học cả năm bản dịch thì phiền toái. 於是多捨此經而專攻《阿彌陀經》矣“Ư
thị đa xả thử kinh nhi chuyên công A Di Đà Kinh hỹ”( do vậy, đa số bỏ kinh này để dốc sức ở kinh A Di Đà). Nói được hay! Đúng thật như vậy, chính chúng
tôi cũng từ con đường đó mà quay đầu lại. 清初彭紹升居士曰:此經闡揚者少,實以無善本故。誠哉是言!“Thanh sơ Bành Thiệu Thăng Cư sĩ viết: thử Kinh xiển dương giả thiểu, thật
dĩ vô thiện bản cố. Thành tai thị ngôn!”(Đầu thời nhà Thanh Cư sĩ Bành Thiệu Thăng nói: kinh này ít được người
xiển dương, thật là vì chưa có thiện bản. Lời ấy đúng thay!). Câu này nói
được hay, là lời thật. Đây là điều quan trọng của Kinh điển, quan trọng của
pháp môn, vì sao không có người hoằng dương? Chủ yếu là, nói đi nói lại vẫn là
không đủ duyên phận. Pháp sư của Ấn Độ đến
Trung Hoa để hoằng pháp, có mang theo bộ Kinh này, nên bản phiên dịch rất nhiều,
mà nội dung của các bản dịch có sai khác rất lớn, người sơ học chúng ta không
biết dựa vào bản nào thì tốt, nên từ bỏ đi. Do đó Vương Long Thư vào triều Tống
(tức là Vương Nhật Hưu), Bành Thiệu Thăng vào triều Thanh, Ngụy Thừa Quán, 均為宏揚此經,先後有會本與節本之作“quân vị hoằng dương thử kinh, tiên
hậu hữu hội bản dữ tiết bản chi tác”( vì hoằng dương kinh này, mà trước
sau đã làm ra bản hội tập và bản trích lục). Bản trích lục
là của Bành Thiệu Thăng, bản hội tập là của Ngụy Thừa Quán, những bản này đều
có trong Đại Tạng Kinh.
宋代大居士王日休,曾撰《龍舒淨土文》,四海稱譽,傳誦至今。王氏臨終,端立往生。可證居士實為我國淨宗解行俱優、殊勝希有之在家大德。王氏深慨寶典之塵封,於是乃會集《無量壽經》漢、魏、吳、宋四種原譯另成一本,名為《大阿彌陀經》。王本問世,海內稱便,叢林奉為課本,流通勝於原譯。我國龍藏及日本大正藏亦均採入王本。蓮池大師曰:王氏所會,較之五譯,簡易明顯,流通今世,利益甚大“Tống đại đại Cư sĩ Vương Nhật Hưu,
tằng soạn Long Thư Tịnh Độ Văn, tứ hải xưng dự, truyền tụng chí kim. Vương thị
lâm chung, đoan lập vãng sanh. Khả chứng Cư sĩ thật vi ngã quốc Tịnh Tông giải
hạnh câu ưu, thù thắng hy hữu chi tại gia Đại đức. Vương thị thâm khái bảo điển
chi trần phong, ư thị nãi hội tập Vô Lượng Thọ kinh, Hán, Ngụy, Ngô, Tống tứ chủng
nguyên dịch, lánh thành nhất bổn, danh vi Đại A Di Đà Kinh. Vương bổn vấn thế,
hải nội xưng tiện, tùng lâm phụng vi khóa bổn, lưu thông thắng ư nguyên dịch.
Ngã quốc Long Tạng
cập Nhật Bản Đại Chánh
Tạng diệc quân thái nhập Vương bổn. Liên Trì Đại sư viết: Vương
thị sở hội, giảo chi ngũ dịch, giản dị minh hiển, lưu thông kim thế, lợi ích thậm
đại. ”(Thời Tống, đại
cư sĩ Vương Nhật Hưu từng viết Long Thư Tịnh Độ Văn, được bốn biển khen ngợi,
truyền tụng đến nay. Ông
Vương lúc lâm chung, đứng ngay ngắn vãng sanh. Đủ chứng tỏ, hạnh lẫn giải của Cư
sĩ Vương đều vượt trội trong Tịnh-tông nước ta, là bậc Đại đức tại gia thù thắng
hiếm có. Ông Vương
tiếc nuối sâu xa bảo điển bị bụi phủ, bèn hội tập bốn bản dịch gốc các đời Hán,
Ngụy, Ngô, Tống, tạo thành một bản riêng, đặt tên là Đại A Di Đà Kinh.
Bản của ông Vương ra đời, được
trong nước khen là tiện lợi, chốn tùng lâm dùng trong thời khóa chính, sự lưu
thông rộng rãi hơn nguyên bản dịch. Long Tạng nước ta và Đại Chánh Tạng của Nhật
Bản cũng đều chọn nhập tạng bản của ông Vương. Đại sư Liên Trì nói: bản
hội tập của ông Vương, đơn giản, dễ hiểu, rõ ràng hơn so với năm bản dịch gốc,
lưu thông trong đời nay, thì lợi ích rất lớn). Đó là lời nói
của Đại sư Liên Trì. 又曰:以王本世所通行,人習見故。故於所著《彌陀疏鈔》中,凡引證《無量壽經》之處,多取王文,間採原譯。又幽溪大師更有盛焉,於所撰《彌陀圓中鈔》中,專取王本經文。近代印光大師於所撰《重刻圓中鈔序》中,亦讚王本文義詳悉,舉世流通。“Hựu viết: Dĩ Vương bổn thế sở
thông hành, nhân tập kiến cố.
Cố ư sở trước Di Đà Sớ
Sao trung, phàm dẫn chứng Vô Lượng Thọ Kinh chi xứ, đa thủ Vương văn, gián thái
nguyên dịch. Hựu
U Khê đại sư cánh hữu thịnh yên, ư sở soạn Di Đà Viên Trung Sao trung, chuyên
thủ Vương bản kinh văn. Cận
đại, Ấn Quang Đại sư ư sở soạn Trùng Khắc Viên Trung Sao Tự trung, diệc tán
Vương bản văn nghĩa tường tất, cử thế lưu thông.”(Lại nói: Do bản của ông Vương được lưu hành
rộng rãi ở đời, người ta thấy quen. Vì thế, khi viết tác phẩm Di Đà Sớ Sao, hễ chỗ nào dẫn chứng kinh Vô Lượng
Thọ, phần lớn trích theo bản của ông Vương, ít khi dẫn theo bản dịch gốc.
Thêm nữa, Đại sư U Khê càng dùng rộng
rãi hơn, trong khi soạn tác phẩm Di Đà Viên Trung Sao, ngài chuyên chọn kinh
văn trong bản của ông Vương. Thời cận đại, Đại sư Ấn Quang trong lời Tựa Tái Bản
Bộ Viên Trung Sao, Ngài cũng khen ngợi bản của ông Vương văn lẫn nghĩa rõ ràng
đầy đủ, đề xuất lưu thông ở đời). Đoạn này là Lão Cư
sĩ Hoàng Niệm Tổ vì chúng ta mà giới thiệu, đó là những bản dịch, hội tập và
trích lục của các thời đại, đều xuất hiện ở Trung Hoa, mà lại đều có người tán
thán, cũng có thiểu số người học tập, cũng là vì chúng ta mà nói rõ ra.
Chúng ta lại xem tiếp: 王氏會經
“Vương thị hội kinh”(Ông Vương hội tập kinh), Cư sĩ Vương
Long Thư, 雖大有功於淨宗,但所會之本頗多舛誤“tuy đại hữu công ư Tịnh Tông, đản
sở hội chi bổn phả đa suyễn ngộ”(tuy có công lớn đối với Tịnh-tông, nhưng trong bản hội tập có khá nhiều
sai lầm), sai lầm. 白圭之瑕,賢者惜之“Bạch khuê chi hà, hiền giả tích
chi”(Ngọc khuê lại
có tì vết, khiến người hiền tiếc nuối). Bản hội tập của Vương Long Thư, là
bản hội tập sớm nhất vào thời triều Tống, nhưng trong đó có rất nhiều vấn đề, tức
là có những chỗ sai lầm. 蓮池大師謂其:抄前著後,去取未盡“Liên
Trì Đại sư vị kỳ: Sao tiền trước hậu, khứ thủ vị tận”
(Đại sư Liên Trì nói: Sao kinh phần trước,
tự viết phần sau, lấy bỏ không trọn vẹn). Đấy là lời của Đại sư Liên Trì. 彭紹升居士斥之為:凌亂乖舛,不合圓旨“Bành Thiệu Thăng Cư sĩ xích chi
vi: Lăng loạn quai suyễn, bất hợp viên chỉ”( Cư sĩ Bành Thiệu Thăng chê rằng: lộn
xộn rối ren, chẳng hợp ý chỉ viên dung). 今筆者“kim bút giả”(nay
người viết), người viết tức là Lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ. 仰承古德諸說,竊計王氏之失有三“ngưỡng thừa cổ đức chư thuyết, thiết
kê Vương thị chi thất hữu tam”( dựa theo các nhận định của bậc cổ đức,
vụng về kể ra ba khuyết điểm của ông Vương), tức là bản hội
tập của Cư sĩ Vương Long Thư, có ba chỗ sai lầm: 一者,王氏會集,僅據四種,未及唐譯。唐譯名《無量壽如來會》,出自《大寶積經》,乃菩提流志大師所譯,多奧妙精要之文,為他譯所無“Nhất giả, Vương thị hội tập, cẩn cứ
tứ chủng, vị cập Đường dịch. Đường dịch danh Vô Lượng Thọ Như Lai Hội, xuất tự
Đại Bảo Tích Kinh, nãi Bồ Đề Lưu Chí Đại sư sở dịch, đa áo diệu tinh yếu chi
văn, vi tha dịch sở vô” (Một là: Bản hội tập của ông
Vương, chỉ dựa trên bốn bản dịch, thiếu bản dịch đời Đường. Bản dịch đời Đường
tên là Vô Lượng Thọ Như Lai Hội trích từ Kinh Đại Bảo Tích, do Đại sư Bồ Đề Lưu
Chí dịch, văn kinh bản đó có nhiều áo diệu, tinh yếu, mà các bản dịch khác
không có), đây là ngài đã bỏ sót. 二者,去取未盡,取繁遺要,改深為淺。例如蓮池大師所責:如三輩往生,魏譯皆曰發菩提心,而王氏唯中輩發菩提心。下曰不發,上竟不言,則高下失次,故云未盡。由上例可見,上竟不言即是遺要“Nhị giả, khử thủ vị tận, thủ
phồn di yếu, cải thâm vi thiển. Lệ như Liên Trì
đại sư sở trách: Như tam bối vãng sanh, Ngụy dịch giai viết phát Bồ-đề tâm, nhi
Vương thị duy trung bối phát Bồ-đề tâm; hạ viết bất phát; thượng cánh bất ngôn,
tắc cao hạ thất thứ, cố
vân vị tận. Do
thượng lệ khả kiến, thượng cánh bất ngôn tức thị di yếu.”(Hai là: lấy bỏ không trọn vẹn, lấy
phần rườm rà, bỏ chỗ quan trọng, sửa sâu thành cạn. Ví dụ như Đại sư Liên Trì đã chê rằng:
Như trong phần ba bậc vãng sanh, bản
dịch đời Ngụy đều ghi cả ba bậc đều phát Bồ-đề tâm, mà ông vương ghi chỉ bậc
trung phát Bồ-đề tâm; bậc hạ nói không phát; bậc thượng lại không nói,
thành ra cao thấp chẳng thứ tự,
nên bảo là chưa trọn vẹn.
Bởi vì điều này, có thể thấy, bậc
thượng lại không nói chính là bỏ sót phần quan trọng).
Ngài đã lơ là chỗ quan trọng rồi, 下曰不發即是改深為淺“Hạ
viết bất phát tức thị cải thâm vi thiển”(Nói bậc hạ không phát tâm Bồ-đề đó là sửa sâu thành cạn). Nên Đại
sư Liên Trì và Cư sĩ Bành Thiệu Thăng đều có phê bình đối với ông. 抄前著後,未順譯法“Sao tiền trước hậu, vị thuận dịch pháp”(chép kinh phần trước, tự viết phần sau,
không tuân theo phương pháp dịch thuật). Quở trách ông trích dẫn văn Kinh ở
phần trước, nhưng phần sau lại dùng ý của mình để viết thêm vào. Chúng ta ghi
nhớ kỹ câu sau đây: 蓋是會集,必須依據原經,萬萬不可於原譯外,擅增文句
“Cái thị hội tập, tất tu y cứ nguyên
kinh, vạn vạn bất khả ư nguyên dịch ngoại thiện tăng văn cú” (Bởi vì hội tập, cần phải dựa theo nguyên văn
kinh của bản dịch, muôn vàn chẳng thể tự tiện thêm câu văn), nhất định
không thể được, đó là sai sót đặc biệt nghiêm trọng. 故責王氏未順譯法。由上可見王氏之失,非是不應會集,而在於會本之多瑕疵也“Cố trách Vương thị vị thuận dịch
pháp. Do thượng khả kiến Vương thị chi thất, phi thị bất ưng hội tập, nhi tại ư hội bổn chi đa hà tỳ dã.” (Nên mới trách là ông Vương chưa tuân theo
cách dịch thuật. Do những điều trên, có thể thấy ra khuyết điểm của ông Vương, không
phải là để đừng nên hội tập, mà để thấy trong bản hội tập đó có nhiều tỳ vết thôi),
đây là những chỗ sai sót. Không thể không chú ý những điểm đó.
Tiếp
theo, 彭紹升居士憾“Bành Thiệu Thăng Cư sĩ hám”(Cư sĩ Bành Thiệu Thăng tiếc
nuối), tức là tiếc nuối, 王本之失,乃取魏譯本而刪節之,是為《無量壽經》之第七種 “Vương bổn chi
thất, nãi thủ Ngụy dịch bản nhi san tiết chi, thị vi Vô Lượng Thọ Kinh chi đệ
thất chủng”(Khuyết
điểm trong bản của ông Vương, bèn lấy bản Ngụy dịch mà gạn lọc, trích lược,
thành bản thứ bảy của kinh Vô Lượng
Thọ). Bản đó chẳng qua là tiết bản, không phải là hội
tập. 於是晚清魏承貫“Ư thị vãn Thanh Ngụy Thừa Quán”(
Do vậy, vào cuối đời Thanh Ngụy Thừa
Quán), tức là Cư sĩ Ngụy Mặc Thâm, 為救龍舒之失,取五種原譯,另行會集,別成一書,初仍名《無量壽經》,後經正定王耕心氏改名為《摩訶阿彌陀經》。魏本文字簡潔精當,遠過王本。但率自增文之病,未能盡免,故魏本亦未盡善也。“Vị cứu Long Thư chi thất, thủ ngũ chủng
nguyên dịch, lánh hành hội tập, biệt thành nhất thư, sơ nhưng danh Vô Lượng Thọ
Kinh, hậu kinh Chánh Định Vương Canh Tâm thị cải danh vi Ma Ha A Di Đà Kinh. Ngụy
bổn văn tự giản khiết, tinh đáng, viễn quá Vương bổn. Đản suất tự tăng văn chi bệnh, vị
năng tận miễn, cố Ngụy bổn diệc vị tận thiện dã.”(Nhằm chữa khuyết điểm của ông Long Thư, bèn
lấy năm bản dịch gốc, lại làm hội tập, thành một bản khác, lúc đầu vẫn gọi là
Vô Lượng Thọ Kinh; về sau, được ông Chánh Định Vương Canh Tâm đổi tên thành Ma
Ha A Di Đà Kinh. Bản
của ông Ngụy văn tự đơn giản, trong sáng, tinh yếu, thỏa đáng, vượt xa bản của
ông Vương. Nhưng
khuyết điểm tự tiện thêm văn, vẫn chưa thể khỏi hết, cho nên bản của ông Ngụy
cũng chưa thật hoàn thiện). Đúng là tận thiện tận mỹ không dễ
dàng!
先師夏蓮居老居士,悲智雙運,宗說俱通。圓融顯密禪淨於一心,專宏持名念佛攝萬德。為宏淨宗,故願此淨宗第一之經,破塵生光;冀此無上之典,饒益當來。乃繼前賢,重行會集。屏棄萬緣,掩關三載,淨壇結界,冥心孤詣,稿經十易,方慶經成。首蒙宗教俱徹之慧明老法師手持會本攝影於佛前,為作證明。律宗大德慈舟老法師繼之專講此經於濟南,並親為科判。先舅父梅老居士在中央廣播電臺播講此經,稱之為最善之本。後復於經序中讚曰:精當明確,鑿然有據。無一義不在原譯之中,無一句溢出本經之外。艱澀沉晦,使之爽朗;繁複冗蔓,歸於簡潔;凌亂俾成整嚴,闕疏悉令圓滿。必期有美皆備,無諦不收。……雖欲不謂之善本不可得也。於是先師會本問世以來,不脛而走。佛界尊宿多以會本文簡義豐,詞暢理圓,講說讚揚,流播中外。見者聞者,歡喜信受。持誦印行,絡繹不絕。近且蒙海外佛學界收入新印之續藏。行見大經光明,常照世間。昔賢會集之勝願,幸告圓成。《無量壽經》之善本,於茲慶現。此實為希有難逢之大事因緣也。 “Tiên sư Hạ
Liên Cư lão Cư sĩ, bi trí song vận, tông thuyết câu
thông, viên
dung hiển mật thiền tịnh ư nhất tâm, chuyên hoằng trì danh niệm Phật nhiếp vạn đức. Vị hoằng Tịnh-tông, cố
nguyện thử Tịnh-tông đệ nhất chi kinh, phá trần sanh quang; Ký thử vô thượng chi điển, nhiêu
ích đương lai. Nãi
kế tiền hiền, trùng hành hội tập. Bính khí vạn duyên, yểm quan tam tải, tịnh
đàn kiết giới, minh tâm cô nghệ, cảo kinh thập dị, phương khánh kinh thành.
Thủ mông Tông Giáo câu
triệt chi Huệ Minh lão Pháp sư thủ trì hội bản nhiếp ảnh ư Phật tiền, vị tác chứng
minh. Luật Tông Đại đức
Từ Châu lão Pháp sư kế chi, chuyên giảng thử kinh ư Tế Nam, tịnh thân vi khoa
phán. Tiên cữu phụ Mai
lão Cư sĩ tại trung ương quảng bá điện đài bá
giảng thử kinh, xưng chi vi tối thiện chi bổn. Hậu phục ư kinh tự trung tán viết: tinh đáng minh xác, tạc nhiên hữu cứ, vô nhất nghĩa bất tại nguyên dịch chi trung, vô nhất cú dật xuất bổn
kinh chi ngoại; gian
sáp trầm hối sử chi sảng lãng, phồn phức nhũng mạn quy ư nhũng khiết, lăng loạn
tỷ thành chỉnh nghiêm, khuyết sơ tất linh viên mãn. Tất kỳ hữu mỹ giai bị, vô đế bất
thu… Tuy dục bất vị chi thiện bổn bất khả đắc dã. Ư thị tiên sư hội bổn vấn thế dĩ
lai, bất hĩnh nhi tẩu. Phật
giới tôn túc đa dĩ hội bổn văn giản nghĩa phong, từ sướng lý viên, giảng thuyết
tán dương, lưu bá trung ngoại. Kiến
giả văn giả, hoan hỷ tín thọ, trì tụng ấn hành, lạc dịch bất tuyệt. Cận thả mông hải ngoại Phật học giới
thâu nhập tân ấn chi Tục Tạng. Hành
kiến Đại kinh quang minh, thường chiếu thế gian, tích hiền hội tập chi thắng
nguyện, hạnh cáo viên thành. Vô
Lượng Thọ Kinh chi thiện bản, ư từ khánh hiện, thử thật vi hy hữu nan phùng chi
đại sự nhân duyên dã”(Thầy
tôi là lão Cư sĩ Hạ Liên Cư, đủ
đức từ bi trí huệ, thông cả tông lẫn giáo, viên dung Hiển Mật Thiền Tịnh đều đến nhất tâm, chuyên sâu trì danh niệm Phật nhiếp
vạn đức. Vì hoằng dương Tịnh-tông, nên mong Kinh bậc nhất của Tịnh-tông này được tan bụi tỏa sáng;
Mong mỏi vô thượng bảo điển này,
làm lợi ích cho tương lai, nên
tiếp nối bậc hiền thuở trước, lại làm hội tập. Buông xuống vạn duyên, đóng cửa
ba năm, tịnh đàn kiết giới, âm thầm chuyên tâm thực hiện, sửa bản thảo mười lần
mới hoàn thành. Đầu
tiên được bậc thông triệt Tông lẫn Giáo là lão Pháp sư Huệ Minh, cầm bản hội tập
chụp ảnh trước Phật để làm chứng minh. Tiếp đó, Đại đức trong Luật-tông là lão Pháp sư Từ Châu chuyên giảng
kinh này ở Tế Nam, và đích thân viết khoa phán. Cậu đã khuất của tôi là Mai lão Cư sĩ, khi rộng giảng kinh này trên đài
phát thanh Trung Ương, đã khen là thiện bản nhất. Sau đó, trong phần lời tựa của Kinh
lại khen rằng: tinh
yếu rõ ràng chính xác, thật có căn cứ, không có một nghĩa nào mà không có trong
nguyên bản dịch, không một câu nào vượt ngoài nguyên văn kinh; làm sáng tỏ những chỗ trúc trắc tối
nghĩa; làm đơn giản gọn gàng những chỗ phức tạp rườm rà; khiến chỗ luộm thuộm
biến thành nghiêm chỉnh, chỗ thiếu sót trở thành viên mãn, tất cả đều thành tốt
đẹp hoàn chỉnh, không có nghĩa lý nào mà chẳng bao gồm…dù muốn chê không phải
là thiện bản cũng không được. Vậy
nên từ khi bản hội tập của tiên sư ra đời, không chân mà đi khắp chốn,
đa số bậc tôn túc trong giới Phật
giáo công nhận bản hội tập văn từ giản dị, nghĩa lý phong phú, giảng giải khen
ngợi, lưu truyền trong ngoài nước. Người thấy, kẻ nghe, đều ưa thích tin nhận, trì tụng, ấn hành liên tục
chẳng dứt. Gần
đây, lại còn được giới Phật học ở hải ngoại đưa bản này vào phần Tục Tạng trong
bản in mới của Đại Tạng Kinh. Mừng
được thấy quang minh của Ðại kinh thường chiếu thế gian, ý nguyện hội tập thù
thắng của bậc hiền nhân thuở xưa đã thành tựu viên mãn, thiện bản của Kinh Vô Lượng Thọ nay
đã xuất hiện, đây thật là đại sự nhân duyên hy hữu khó gặp). Đoạn văn chữ này của Niệm Lão, hy vọng
mọi người xem nhiều lần, xem càng nhiều biến càng tốt. Xem càng nhiều, thì giúp
chúng ta trừ đi hiểu lầm của người trong quá khứ, và hóa giải hoàn toàn những
nghi ngờ hiện nay của chúng ta. Hóa giải hết nghi ngờ rồi, thì niềm tin của quý
vị sẽ là thật, nguyện của quý vị mới thiết, Phật hiệu của quý vị mới linh nghiệm.
Nếu câu câu Phật hiệu đều tương ưng với thật tin nguyện thiết, thì tương lai
lúc mạng chung, nhất định A Di Đà Phật sẽ đến tiếp dẫn. Vì vậy, những lời này của
Niệm Lão, chữ chữ câu câu đều là những lời vàng ngọc, vô cùng vô cùng khó có được,
hy vọng đồng học chúng ta không thể lơ là, không được xem thường.
Tôi chính đã vì nguyên nhân này, mà
giúp mọi người ngay trong đời này, nhận thức Phật giáo, nhận thức Tịnh-tông, nhận
thức bản hội tập Kinh Vô Lượng Thọ. Thọ mạng chúng tôi có hạn, tuổi tôi đây tùy
lúc có thể vãng sanh. Tôi đối với thế gian này không có lưu luyến, hoan hỷ vãng
sanh. Quý vị hỏi tôi việc gì là hoan hỷ nhất? Vãng sanh là hoan hỷ nhất, việc
khác đều buông xuống rồi. Đời này tôi được Phương tiên sinh dạy dỗ: học Phật là
hưởng thụ tối cao của đời người. Hưởng thụ tối cao của đời người là gì, mọi người
có biết hay không? Tôi đạt được rồi, cả đời không quản ba điều: không quản người,
không quản việc, không quản tiền. Hưởng thụ tối cao của đời người, mà tiên sinh
Phương Đông Mỹ nói với tôi, thì tôi đã đạt được, tôi thật làm. Những năm đầu
không có người cúng dường, tôi không chú ý lời đó, quý vị không có tiền, thì
quý vị cần phải buông xả; những năm sau, nhờ giảng Kinh có chút hiệu quả, thì
người cúng dường nhiều rồi, mười mấy hai mươi năm trước, đại khái là 20 năm, tiền
cúng dường của tôi dùng vào đâu? Là in kinh sách. Chính tôi không có khả năng,
mọi người gom góp tiền để in, có người gom góp tiền, thì tôi nhất định đưa tay
ra để in kinh. Trong mười năm nay đã mua được vài bộ sách lớn, như: Tứ Khố Toàn
Thư, Tứ Khố Hội Yếu, đem tặng cho thư viện của các trường Đại học và thư viện
các quốc gia. Dù thế giới có thảm họa lớn đi nữa, thì tôi tin rằng sẽ không mất
hết hoàn toàn, thế nào cũng vẫn còn lại vài bộ cho chúng ta, đó là cách nghĩ của
tôi. Trong hai, ba năm nay, duyên của tôi với châu Âu đã chín muồi, đã thấy
sách của tôi trong những trường Đại học ở châu Âu, được bày trên giá sách, rất
sang trọng, tôi hỏi nhân viên quản lý, có người đến mượn không? Họ nói không
có; Có người lấy để tra tài liệu tham khảo không? Cũng không có; tôi nghe rồi rất
buồn, nên liền muốn xây dựng Viện Hán học. Hiện nay tiền mà mọi người cúng dường
cho tôi, toàn bộ dùng làm quỹ của Viện Hán học, và quỹ học bổng. Chúng ta phải
bồi dưỡng một nhóm người trẻ, có khả năng biết được chữ Hán, có năng lực đọc Tứ
Khố Toàn Thư. Việc khác thì hết rồi, với chính tôi, thì lão thật niệm Phật, cầu
sanh Tịnh-độ.
Tốt rồi, thời gian hôm nay đã hết
rồi, chúng ta học đến đây thôi.
( Hết tập 7)
Nguyện đem công đức này
Trang nghiêm Phật Tịnh-độ
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Đều phát tâm Bồ-đề
Hết một báo thân này
Đồng sanh nước Cực Lạc.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Diễn đọc: Phật tử Thiện Quang
Địa
chỉ email dịch giả: [email protected]
Kênh Youtube: Thiện Trang Văn Trang