SA DI THẬP GIỚI OAI NGHI LỤC
YẾU
TẬP: 9
Nguyên bản: Ngẫu
Ích Sa môn Trí Húc, y theo Luật Tạng biên tập.
Người giảng: Pháp Sư Định Hoằng.
Giảng tại: Chùa Viên Minh, Hương Cảng.
Thời gian:
Ngày 20 tháng 8 năm 2012.
Dịch giả:
Thích Thiện Trang.
Trân trọng kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng tu, cùng chư vị đồng tu đang
xem trực tiếp qua mạng Internet. Chúc mọi người tốt lành! Chúng
ta tiếp tục học tập Sa Di Giới Yếu. Thỉnh mọi người xem trang 17 trong quyển kinh,
thỉnh mọi người xem điều thứ 15:
“Nếu thầy thân tâm mệt
mỏi, bảo đi thì nên đi, không được tâm tình không vui, biểu hiện ra trên sắc mặt.”
Đây tiếp tục nói về hầu thầy, phụng sự sư trưởng ra làm
sao. Nếu như sư trưởng thân tâm mệt mỏi, Ngài không muốn nói chuyện với quý vị
nữa, tức bảo quý vị hãy trở ra trước, ta muốn nghỉ ngơi. Lúc đó quý vị nên nhanh
chóng đi ra, dù cho muốn thỉnh hỏi Phật pháp, hoặc muốn hỏi chuyện thường, đều
không nên tiếp tục hỏi. Trừ khi là vô cùng khẩn cấp, sự việc thông thường có thể
để ngày hôm sau hỏi, nên rời khỏi. Không thể cảm thấy, tôi không dễ gì hẹn gặp
sư trưởng, mà sư trưởng lại mệt mỏi rồi, tâm thái liền không vui, thậm chí có
oán giận, như vậy là không tốt. Thậm chí “biểu hiện ra trên sắc mặt”, lời nói,
trong tâm không hài lòng, sắc mặt cũng khó coi, sắc mặt như vậy là đại bất kính
với sư trưởng. Hễ đối với sư trưởng, kể cả đối với cha mẹ người lớn mà có “tâm
thái không vui”, có oán giận, đó đều là đại bất hiếu, đại bất kính, không nên
có. Nếu như có, thì phải mau mau sám hối, từ bỏ. Trong Đệ Tử Quy cũng có cách
nói tương tự, đó là “bảo đi nên đi”, thí dụ như “Người không an, không làm phiền”, “người đang bận, đừng quấy nhiễu”, đều
là không nên làm phiền người khác, cố gắng tôn trọng người khác đang nghỉ ngơi,
đây là sự tôn trọng tối thiểu nhất. “Cha
mẹ bảo, chớ làm biếng”, “sư trưởng bảo” cũng là “chớ làm biếng”, sai quý vị
làm gì thì quý vị lập tức đi làm nhanh. Đương nhiên cũng bao gồm bảo quý vị làm
việc nặng nhọc, bảo quý vị đi phục vụ, thì quý vị cũng phải lập tức đi chớ làm
biếng.
Điều thứ 16:
“Phàm có việc phạm
giới v.v.. thì không được che giấu, mau mau đến gặp thầy, tinh thành xin sám hối.
Thầy chấp nhận thì tận tình phát lồ, tinh thần hối cải, được thanh tịnh trở lại,
nếu phạm bốn giới căn bản, thì phải y theo quyết nghi của thầy, mới có thể thực
hành thủ tướng sám.”
Đây nói tới chính mình có lỗi lầm đã phạm giới, 10 giới Sa
di, 24 môn oai nghi, thậm chí tương lai đã thọ giới Tỳ kheo, “Phàm có việc phạm
giới v.v..”, đều không thể “che giấu”. Không chịu nói ra, giấu ở trong tâm, như
vậy làm cho tội vĩnh viễn không sám trừ được, vả lại là thói quen sẽ lần thêm lớn,
cần phải mau mau đến gặp sư phụ thiết tha cầu sám hối, cầu xin sư phụ tha thứ.
Đương nhiên trước khi sám hối phải hỏi qua sư phụ, hiện giờ con có thể hướng sư
phụ sám hối được không? Sư phụ đồng ý, thì quý vị mới “tận tình phát lồ”. Tận
tình tức là không có một chút tơ hào giấu diếm, đều nói ra hết. Quý vị dám nói
ra, thì quý vị mới có dũng khí để cải lỗi, làm mới chính mình. Quý vị không chịu
phát lồ, thì làm sao quý vị có thể sửa đổi được? Cho nên phát lồ sám hối, đó là
nền móng của sửa lỗi. Phải “tinh thành sám hối”, phát lồ nói ra, để thừa nhận lỗi
lầm, mà đồng thời trước mặt sư trưởng phát nguyện sau không tái phạm. Quý vị phải
làm thật sự, tinh thành hối cải. Tinh là tinh chuyên, tôi sửa lỗi phải dùng
tâm; thành là chân thành, không phải giả dối, không dối mình, không dối người.
Có lỗi phải sửa lỗi, làm mới chính mình, “được thanh tịnh trở lại”, tội nghiệp
này của quý vị liền có thể tiêu trừ. Chúng ta phải cảm ơn sư trưởng làm tăng
thượng duyên cho chúng ta sám hối, nếu như không có sư trưởng, thì chúng ta muốn
sám hối đều không biết đối trước ai để phát lồ. Cho nên chúng ta cảm ơn sư trưởng.
Đương nhiên cũng có thể hướng đồng tu của mình, thật sự có tri kiến chính xác,
có đức hạnh, họ nghe tội nghiệp của quý vị, mà sẽ không chê cười, hủy báng quý
vị, đó là người đáng tin cậy, chúng ta cũng có thể hướng họ sám hối.
Cũng nói lại rằng, chúng ta phát lồ sám hối, thì cũng không
phải sợ người ta nói lỗi của chúng ta. Người ta nói lỗi của chúng ta thì cũng
như giúp chúng ta tiêu nghiệp chướng, nên không phải sợ. Tôi không dám nói, nói
rồi sợ người khác đều biết được, tôi rất xấu hổ, tâm thái quý vị như vậy thì
làm sao được thanh tịnh. Thật ra người ta đều nói quý vị, phê bình quý vị, cười
chê quý vị, hủy báng quý vị, thì mới giúp quý vị tiêu nghiệp chướng. Vốn nghiệp
chướng đó, thì khả năng quý vị phải đọa ác đạo, nhưng do nhờ người khác sỉ nhục,
hủy báng, nên nghiệp chướng của quý vị tiêu trừ hết rồi, không phải đọa ác đọa
nữa. Tội nghiệp đó ai tiêu cho quý vị? Chính là người hủy báng quý vị, người cười
chê quý vị, họ giúp quý vị bỏ đi nghiệp rồi, quý vị phải cảm ơn họ, quý vị thấy
họ làm vậy là đại từ đại bi giúp quý vị tiêu nghiệp chướng, quý vị có nên cảm
ơn không? Sao có thể lại hận họ được chứ? Do đó đừng nên sợ người ta chê cười,
sỉ nhục chúng ta, có tội phải sám, có lỗi phải sửa. Đệ Tử Quy cũng nói “Vật tuy nhỏ, chớ cất riêng, nếu cất riêng,
cha mẹ buồn”, chúng ta đem vật đổi thành tội thì “tội tuy nhỏ, chớ cất riêng, nếu cất riêng, thầy buồn thương”, thì
liền hoàn toàn tương ứng với trên. Đây là cung kính đối với lão sư, tức là thật
sự y giáo phụng hành, còn có “Biết sửa lỗi,
không còn lỗi, nếu che giấu, lỗi chồng thêm”, là hoàn toàn tương ưng, có lỗi
phải sửa, sửa rồi liền không còn, tức là được thanh tịnh, nghiệp thân khẩu đều
thanh tịnh rồi. Nếu như quý vị còn che giấu, thì tội này lại tăng thêm tội.
Tiếp theo điều
thứ 17:
“Thầy nói chưa xong,
không được nói.”
Tức là sư trưởng đang nói chưa xong, thì quý vị không được
chen miệng vào, chen lời vào đó là bất lịch sự. Đệ Tử Quy nói “cha mẹ dạy, phải kính nghe”, sư trưởng cũng như vậy, các Ngài
giáo huấn chưa xong, chúng ta phải cung cung kính kính lắng nghe, không thể tùy
tiện xen lời vào. Dù có muốn phát biểu ý kiến của mình, thì cũng phải đợi sư
trưởng nói xong đã.
Điều tiếp:
“Không được ngồi, giỡn
chỗ ngồi, chỗ nằm của thầy, dùng áo mũ của thầy v.v..”
Đây nói chúng ta không được lấy loạn sử dụng những đồ đạc của
sư trưởng. Trong đó nói chỗ ngồi, là chỗ mà sư trưởng bình thường ngồi, không
được ngồi hỗn loạn, giường của thầy thì chúng ta không thể nằm lên, đây đều là
cung kính. Ngoài ra quần áo, đồ đạc, đồ dùng cá nhân của sư trưởng, quý vị cũng
không được tùy tiện lấy để dùng, lấy y phục của sư phụ mặc lên thân, tự lấy
không hỏi, là chính mình đã phạm giới trộm rồi, hơn nữa trộm đồ của sư trưởng,
Tam Bảo, thì tội này càng nặng hơn. Đương nhiên nếu như sư trưởng cho phép quý
vị, hoặc thí dụ là quý vị không có mũ, sư trưởng cho quý vị đội, như vậy thì được.
Như Sư phụ Thượng nhân của chúng ta cũng thường thường đem những y phục, đồ
dùng của Ngài cho đi, Ngài có rất nhiều dùng không hết, thì cho tôi dùng, đó là
sư trưởng có thể cho. Nếu như sư trưởng không cho, mà quý vị tự lấy để dùng,
thì phạm giới rồi.
Tiếp theo điều
thứ 19:
“Vì thầy đi đưa thư
từ, thì không được tự ý mở xem, cũng không được cho người khác xem. Đến chỗ kia
có hỏi, nên trả lời thì thành thật đáp, không nên trả lời thì khéo léo khước từ
câu hỏi đó. Họ mời ở lại thì không nên ở, phải nghĩ mau trở về, nếu như đường
xa trời tối, gió mưa, có nạn duyên v.v.. thì tùy thời mà định.”
Đây nói vì sư trưởng của mình mà đi đưa thư, “đưa thư từ”.
Thời xưa bởi vì việc gửi thư rất là khó khăn, thường thường có thể quý vị phải
tự mình đi đưa thư, hoặc đưa cho người truyền thư, chuyển lời v.v.. hoặc sư trưởng
nhờ quý vị mang thứ gì đó đem cho người khác, quý vị đều phải cung cung kính
kính. Nếu như là thư từ, không thể “tự ý mở xem”. Đó cũng là phạm giới trộm rồi,
không có thông qua đồng ý của sư trưởng mà quý vị đã xem, loại tâm này thật sự
cùng với đạo không tương ưng. Thật sự có tâm đạo thì nhiều việc không bằng ít
việc, biết nhiều việc thì phiền não nhiều, quen nhiều người thì thị phi nhiều,
vốn sự việc càng ít càng tốt, mà quý vị còn vô cớ tìm việc, còn đi xem thư của
người ta, tâm như vậy thì sai rồi. Thư đó cũng không được tùy tiện cho người
khác xem, bởi vì quý vị làm sao biết nội dung trong thư của sư trưởng có thích
hợp không mà truyền ra bên ngoài? Nếu quý vị cho người xem rồi, có thể tiết lộ
ra ngoài, tạo thành rất nhiều phiền phức. Đến nơi đưa thư rồi, liền giao thư
ngay cho người, người khác có hỏi, quý vị xem xét đáng trả lời hay không, nếu
như thấy họ hỏi không thỏa đáng, thì quý vị có thể không trả lời. “Nên đáp” thì
quý vị có thể trả lời, quý vị cứ thật mà trả lời, cũng không được vọng ngữ; nếu
như “không nên đáp”, thì quý vị “khéo léo khước từ”, tức nói việc này tôi không
biết, tôi không hiểu rõ, quý vị có thể hỏi người nào đó, quý vị có thể đến hỏi
sư trưởng, tôi không biết rõ, đây là một cách. Bởi vì nếu quý vị tùy tiện nói,
thường thường có thể làm rối loạn tình hình chung, ảnh hưởng đến những kế hoạch
của sư trưởng, điều này không nên. “Họ mời ở lại”, tức nếu như họ mời quý vị ở
lại một đêm, thì quý vị không nên tùy tiện mà nói ‘tốt, tôi sẽ ở lại đây’. Quý
vị phải xem xem có thể gấp rút về được không, không về ngay được thì có thể ở lại,
phải cố gắng về với sư phụ, “phải nghĩ mau về”, mau về càng sớm càng tốt. Nếu
đường đi rất xa xôi, mà trời sắp tối, mặt trời đã xuống núi tây, đi về có thể
không tiện, hoặc đang lúc “mưa gió”, bão, hoặc có thiên tai v.v.. những nhân
duyên như vậy, thì quý vị có thể tùy thời mà định, thì quý vị có thể quyết định
ở lại một đêm. Trong Đệ Tử Quy cũng nói “việc
không tốt, chớ dễ nhận”, sự việc nên làm, có thể làm mới nhận lời, nếu như “dễ nhận lời, thì sai lầm”. Cũng là khuyên
nên nói mới nói, không nên nói thì chúng ta phải “khéo léo khước từ”. Nên ở lại
hay không, thì cũng phải xem nhân duyên, nói chung phải mau chóng về với sư trưởng.
Chúng ta xem
tiếp điều thứ 20:
“Thầy tiếp khách, hoặc
đứng chỗ thường đứng, hoặc đứng cạnh thầy, hoặc đứng sau thầy, cần phải cho tai
mắt tiếp nhau, hầu thầy khi cần.”
Đây nói đối với thầy, lúc thầy đang tiếp đãi khách khứa,
thì quý vị nên đứng ở chỗ nào? Quý vị phải nên “đứng chỗ thường đứng”, tức là
nơi quý vị bình thường hay đứng, sư trưởng biết được quý vị đứng chỗ đó, thì dễ
dàng tìm quý vị. Hoặc đứng bên “cạnh thầy”, một bên của lão sư, hoặc “sau thầy”, sao cho sư phụ có thể tùy lúc gọi quý
vị, tiện cho Ngài dặn bảo. Ngài có điều muốn nói với quý vị, “cần phải cho tai
mắt tiếp nhau, hầu thầy khi cần”, Ngài có thể tùy lúc tìm đến quý vị, tai có thể
nghe được tiếng gọi của sư trưởng, Ngài không dùng lớn tiếng mà quý vị vẫn nghe
được, hoặc mắt Ngài có thể thấy được, gọi là “tai mắt tiếp nhau”, chờ nghe lời
sai bảo của thầy, tùy thời mà phụng sự sư trưởng.
Điều tiếp
theo:
“Thầy đau bệnh, thì
hết lòng điều trị, phòng thất, chăn nệm, thuốc thang, cơm cháo, v.v.. mỗi mỗi
chú tâm lo liệu.”
Nếu sư phụ bị bệnh, quý vị phải sắp đặt trước giường nằm, “Cha mẹ bệnh, nếm thuốc trước, ngày đêm hầu,
không rời giường”, ở nhà đối với cha mẹ như vậy, xuất gia đối với thầy, sư
trưởng cũng như vậy. Hết lòng điều trị, tức là lo liệu điều trị, tìm bác sĩ,
thuốc cho thầy, hoặc sắc thuốc v.v… “Phòng thất”, tức là có phòng đặc biệt, nếu
như có nhu cầu cần phòng chăm sóc đặc biệt, cũng phải tìm sắp xếp. “Chăn nệm”,
tức là sư phụ đã lớn tuổi, rời khỏi giường không nổi, có thể không cẩn thận đại
tiểu tiện trên giường, làm bẩn rồi, thì quý vị phải tùy theo mà thay giặt. Như hiếu
tử Vương Hi Mẫu của Đại Liên, cha ông bị bệnh người thực vật 26 năm, Vương Hi Mẫu
săn sóc phục vụ tại giường, mỗi ngày thay đổi nệm giường, mỗi ngày đấm bóp cho
cha của ông, đút cơm cháo, nửa giờ cho đứng dậy một lần, mỗi hai giờ thì đấm
bóp một lần, mỗi ngày cho cha ăn cơm cháo sáu lần. Còn giúp cha mỗi ngày xuống
đất đi, người thực vật làm sao đi được? Vì ông ôm cha, để hai chân cha lên chân
của mình, ông và cha của ông như mặt đối mặt vậy, sau đó tự ông đi lùi, như vậy
giống như cha ông cũng đi bộ vậy, hai chân thì di chuyển theo hai chân của ông,
đi như vậy. Một lần đi là một giờ, đó là giúp cha vận động. Quý vị thấy đây là
tâm hiếu thật đạt đến cùng cực. Nếu dùng tâm như vậy để phụng sự sư trưởng, loại
tâm thành kính của ông, thì thật sự có thể giúp người ta nhập đạo, cho nên phải
có tâm thành kính và hiếu như vậy. “Thuốc thang”, tức là những thứ thuốc điều
trị. “Cơm cháo”, là hàng ngày, có bệnh phải cần ăn uống đặc biệt, mỗi mỗi đều
phải dụng tâm để lo liệu.
Tiếp theo:
“Phàm hầu thầy, thầy
không bảo ngồi thì không dám ngồi, không hỏi thì không dám thưa, trừ khi mình
có việc muốn hỏi.”
Chúng ta phụng sư sư trưởng, cần phải hết sức yên lặng,
không được hay nói chuyện làm phiền sư trưởng. Chúng ta phụng sự ở bên cạnh sư
trưởng, nếu như sư trưởng không nói chúng ta ngồi xuống, thì chúng ta “không
dám ngồi”, bảo chúng ta ngồi thì chúng ta mới ngồi. Đệ Tử Quy cũng nói “Người lớn đứng, nhỏ chớ ngồi, người lớn ngồi,
cho phép ngồi”, các Ngài bảo quý vị ngồi thì quý vị mới có thể ngồi, đây là
cung kính. “không hỏi, thì không dám thưa”, tức các Ngài không hỏi, mở lời thì quý
vị không nên nói trước, khi hỏi quý vị, quý vị mới trả lời. Trừ khi chính mình
có việc cần hỏi sư trưởng, thì quý vị có thể mở lời trước, cho nên phải hết sức
yên lặng.
Đoạn tiếp:
“Phàm đứng hầu,
không được dựa vách, tựa vào ghế, mà nên đứng thẳng thân chân ngay ngắn bên cạnh
thầy”
Đó là đứng thì có tướng đứng, không thể dựa vào vách tường,
vào ghế, phải “đoan thân”, thân thể phải ngay thẳng. “Chân ngay” là hai bàn
chân phải thẳng, đây là dáng đứng rất đoan chánh. Như Đệ Tử Quy cũng nói: “chớ đạp cửa, không đứng nghiêng, chớ ngồi
dang, không rung đùi”, đứng nghiêng tức là nghiêng ba ngã bốn, giống như
lúc đứng một chân vậy, toàn lực của thân chỉ dồn vào một chân, lưng thì bị
cong, như vậy đều là mất oai nghi. Ngồi dang tức là khi ngồi, hai chân lại mở rất
rộng, giống như cái hốt rác vậy, ngồi trông rất khó coi. Còn rung đùi, lắc đùi,
đều là rất khó coi. Huống là người xuất gia, cần phải có những oai nghi, cho
nên đi đứng nằm ngồi gọi là tứ oai nghi. Quy nạp tất cả oai nghi là đi đứng nằm
ngồi: “đi như gió, ngồi như chuông, đứng
như tùng, nằm như cung”, đây là hình thức của oai nghi, rèn luyện lâu ngày
thành thói quen, người khác nhìn thấy quý vị, tự nhiên khởi lên cung kính. Quý
vị xuất gia là mẫu mực của trời người, quý vị phải làm ra được gương tốt. Dù là
tại gia học Phật, cũng phải “học vi nhân
sư, hành vi thế phạm”, phải làm tấm gương tốt cho người thế gian. Trong Đệ
Tử Quy cũng nói “Đi thong thả, đứng ngay
ngắn”.
Tiếp theo điều
thứ 24:
“Muốn lễ bái, nếu thầy
ngăn lại, thì thuận theo lệnh thầy, đừng lạy. Tây Độ chỉ có một lạy, không có pháp
ba lạy”
Đây là nói lạy thầy cũng phải có lễ tiết, tiết là vừa đúng,
có chừng mực, không được quá nhiều, quá nhiều thì biến thành nịnh nọt, không
thích hợp. Nên chúng ta lễ lạy có lúc, thông thường đối với sư trưởng là một lạy.
Thông thường lễ khi nào? Nếu sáng sớm đến vấn an, có thể lễ lạy; hoặc là vừa đi
xa về, thì đương nhiên phải lễ lạy. Chúng ta xướng lên: đảnh lễ sư phụ, thì thông
thường là một lạy, ít khi lạy ba lạy, trừ khi là nhân duyên đặc biệt. Như ngày
27 tháng 9 năm 2006, đó là ngày rất quan trọng của cuộc đời tôi, mẹ tôi dẫn tôi
đến lạy thầy, ở tại Hương Cảng, là chính thức thỉnh Sư phụ Lão Nhân gia tiếp nhận
tôi làm học trò. Khi đó chúng tôi theo cổ lễ đối trước Phật Bồ tát lễ 3 lạy,
sau đó thỉnh Sư phụ Lão Nhân gia ngồi, mẹ tôi dẫn tôi hướng Sư phụ lạy ba lạy. Lúc
đó Sư phụ cũng rất nghiêm trang tiếp nhận, Ngài thay bộ trang phục mới, ngồi
ngay ngắn, chúng tôi nói chúng con xin đảnh lễ Sư phụ ba lạy, Ngài không có nói
một lạy, cũng không nói đừng lạy, tức là tiếp nhận ba lạy của chúng tôi. Nhân
duyên như vậy có thể một đời thì một lần thôi, không thường thường có. Bình thường
gặp mặt thì một lạy là đủ rồi. Cho nên chúng ta lễ thầy, đặc biệt là lúc thông
thường đảnh lễ, thì Sư phụ đều sẽ nói một lạy hoặc nói đừng lạy, nói đừng lạy tức
bảo quý vị dừng lại. “Nếu thầy ngăn lại, thì thuận theo lệnh thầy”. Có người đối
với Sư phụ đặc biệt cung kính, mỗi lần gặp liền nhanh nhanh dập đầu xuống ba lần
rồi, thầy nói khỏi lạy, khỏi lạy, khỏi lạy, nhưng họ vẫn tiếp tục dập đầu, đó tức
là trái lại với ý thầy là không cung kính. Vì sao vậy? Quý vị không nghe lời, bảo
quý vị đừng lạy thì quý vị không lạy, vậy mới là nghe lời, nghe lời tức là cung
kính.
Tiếp theo điều
25:
“Thầy có sai bảo,
nên làm cho kịp thời, không được trái lười”
Sư phụ bảo quý vị làm việc gì, sai khiến quý vị, thì quý vị
phải “làm cho kịp thời”, mau chóng để hoàn thành. Cũng như “cha mẹ bảo, chớ làm biếng”, “không được trái lười”, là không thể
trái nghịch, không được lười biếng.
Điều 26:
“Phàm ngủ nghỉ,
không được ngủ trước thầy, trừ khi có bệnh, thì bạch thầy rồi mới ngủ trước.”
Tối đến lúc ngủ nghỉ, chúng ta phải phục vụ săn sóc sư trưởng,
để sư trưởng ngủ say. Xem xét nếu như ngày đông, “đông phải ấm, hạ phải mát”, hiện nay điều kiện đã tốt rồi, có thể
dùng nệm điện tử, thì khởi động nệm điện tử trước một giờ đồng hồ, đem chăn
bông phủ lên, thì giường ngủ cũng rất ấp áp, sau khi thầy ngủ rồi, thì rút
phích cắm điện ra, không nên để điện khi ngủ, vì từ trường ảnh hưởng không tốt,
phải suy nghĩ tinh tế. Mùa hè rất nóng thì phải làm sao? Mở máy điều hòa, cho máy
chạy khoảng 20 phút, thì cả phòng đều mát mẻ rồi, thỉnh thầy đi ngủ, sau đó tắt
máy điều hòa. Không nên mở máy điều hòa cả đêm, khi đêm ngủ, lỗ chân lông mở
ra, thì khí lạnh đi vào trong người sẽ làm hại thân thể, đây là thường thức phải
biết. “Đông phải ấm, hạ phải mát”, thời
xưa dùng quạt, hiện nay có máy điều hòa, quý vị có thể thoải mái rồi. Nhưng những
đạo lý này chúng ta phải biết, nguyên lý nguyên tắc đều giống nhau, đều cùng
tinh thần kính thầy như vậy. Trừ khi quý vị có bệnh, cơ thể quý vị rất buồn ngủ
không chịu nổi nữa, phải đi ngủ sớm, thì phải nói với Sư phụ: thân thể con đang
có chút bệnh, con muốn về trước để nghỉ ngơi. Sư trưởng nói được, sư phụ đều rất
từ bi, sẽ không trách, trở ngại quý vị, quý vị báo cáo rồi sư trưởng liền nói:
tốt, con về đi. Quý vị có thể về nghỉ. Những điều này có vẻ rất đơn giản, nhưng
trên thực tế quý vị không muốn làm thì tức là quý vị không đủ cung kính.
Tiếp tục điều
27:
“Có người hỏi tên thầy,
nên nói thượng A hạ B. Nếu hỏi hiệu thầy thì nói hiệu của thầy.”
Đây cũng là “với người
lớn, chớ gọi tên”, là quy củ của Phật môn, danh hiệu của Sư phụ mình không
kể là thầy thế độ của quý vị hay thầy truyền pháp, y chỉ sư, thầy truyền giới,
trong truyền giới có thập sư, tam sư thất chứng đó là thập sư, hễ vì quý vị mà
làm thầy, đều không được gọi thẳng, báo cáo thẳng tên. Người ta hỏi quý vị: sư
phụ của quý vị tên gì? Thầy thế độ của quý vị tên gì? Quý vị không thể xưng
ngay Pháp danh của Ngài, mà phải nên đáp “thượng A hạ B”, như ân sư thế độ của
tôi là trưởng lão thượng Sướng hạ Hoài, thêm chữ thượng hạ là biểu thị trân trọng
cung kính. Khi cần phải báo cáo tên, thì quý vị không thể nói: sư phụ của tôi tức
là sư phụ của tôi, như vậy thì người ta nghe cũng không hiểu, lúc đó quý vị phải
nói tên, dùng thượng hạ, họ cũng liền nghe được rõ ràng. “Hỏi hiệu thầy”, Sư phụ
quý vị có tên riêng, và có hiệu, hiệu thì người khác có thể xưng, quý vị có thể
xưng hiệu của Ngài. Thí dụ như Đại sư Ngẫu Ích, Ngài có hiệu là Đại sư Linh
Phong, quý vị có thể nói Linh Phong, tuy nhiên Đại sư Linh Phong ra đi rồi thì
người sau mới xưng Ngài. Nhưng có một số người cũng có hiệu, quý vị thấy Lão sư
của Sư phụ chúng ta là Lão Cư sĩ Lý Bỉnh Nam có hiệu là Tuyết Lư Lão Nhân. Giả
sử nếu người khác hỏi hiệu của Sư phụ quý vị là gì? Thì quý vị có thể trực tiếp
nói hiệu là Tuyết Lư, đây không phải là tên của Ngài, quý vị không được gọi tên
của Ngài, nhưng gọi hiệu của Ngài thì không sao, bởi vì bản thân của hiệu thì
đã là cung kính tôn trọng đối với Ngài rồi.
Tiếp theo điều
28:
“Không được rời thầy
mà ở riêng, nếu thầy qua đời hoặc đi xa mà không đi theo được, thì nên hỏi y chỉ
thầy nào, theo thầy dạy, thì theo thầy y chỉ mà ở, và làm tất cả việc như pháp
thờ thầy vậy. Nếu thầy không chỉ thị mà đột ngột qua đời, đi xa, thì phải chọn
lại bậc minh sư để y chỉ mà ở. Nếu thầy hoàn tục, nếu thầy phá giới, nếu thầy bị
Đại tăng đuổi, thì cũng phải chọn lại bậc minh sư để y chỉ mà ở. Không được tự
tiện buông lung.”
Đoạn này nói y chỉ sư của quý vị, y chỉ sư cũng là Hòa thượng
của quý vị, quý vị không thể tùy tiện rời Ngài, tự mình tìm đến nơi khác để sống,
đi vì để tịnh tu, thật ra đó là không đúng. Vì khi chưa có thành tựu, thì không
thể rời khỏi Hòa thượng, không thể lìa xa Lão sư. Trải qua ít nhất 5 năm học giới,
là học tập với thầy, nghe thầy dạy bảo. Đây là nghĩa rộng của giới, những dạy bảo
của thầy đều phải tuân theo, đó là năm năm học giới. Không chỉ là Ngũ giới, Thập
giới, Tỳ kheo giới, đây đương nhiên cũng là giới, càng quan trọng hơn, là dạy bảo
của thầy nhất định phải tuân thủ. Nếu tự mình thật sự còn chưa khai ngộ, mà thầy
của mình xác xác thật thật là thiện tri thức, thì không thể rời Ngài, cần ở một
mạch đợi đến khi khai ngộ mới có thể rời thầy.
Nếu lão sư qua đời hoặc đã vãng sanh, hoặc Ngài phải đi xa,
một khi đi xa thường là nhiều năm, có thể Ngài cũng phải tham học hoặc có người
thỉnh Ngài đến dạy học, phải rời đi thời gian rất lâu, mà quý vị lại không thể
đi theo. Thì phải làm sao? Cần phải hỏi y chỉ sư của mình, thầy đi rồi, con “y
chỉ với thầy nào?”, như tôi thế độ ở dưới tòa Sướng Công, tôi cũng phải tôn trọng
Lão nhân gia, trước khi thế độ cũng phải hỏi, con có thể y chỉ Tịnh Lão được
không? Ngài đã đồng ý, tôi mới có thể y chỉ. “Theo thầy dạy, thì theo thầy y chỉ
mà ở”, Lão sư giới thiệu cho quý vị, hoặc là Lão sư đồng ý, thì quý vị cần nhất
tâm nhất ý đi theo vị y chỉ sư mới, không được tùy tiện thay đổi Lão sư. Tùy tiện
thay đổi Lão sư, hôm nay theo học người này, ngày mai theo học người kia, theo
rất nhiều thiện tri thức, đến sau cùng tâm loạn cả lên. Bổn tâm sẽ không định, vì
thường hay thay đổi nơi ở, thì tâm sẽ không định. Thường hay nghe rất nhiều người,
người này nói này, người kia nói kia, tuy có thể những người ấy đều là thiện
tri thức, nhưng chính quý vị cũng không thể viên dung giáo huấn của các Ngài,
thì trong tâm của quý vị sẽ sinh ra mâu thuẫn. Nên nhất định phải theo học một
người thầy, phải học thành rồi mới có thể học rộng nghe nhiều, đi tham hỏi thiện
tri thức.
Thiện tri thức y chỉ mới cũng phải tất cả việc “như pháp thờ
thầy”, cũng phải hoàn toàn y theo nguyên tắc thờ thầy để làm, cũng giống như đối
với y chỉ sư lúc đầu vậy. “Nếu thầy không chỉ thị”, nếu thầy không có nói mà đã
mất rồi, hoặc đã vãng sanh, hoặc đã rời khỏi, thì tự mình cần phải “chọn lại bậc
minh sư để y chỉ mà ở”. Đây là tự mình phải lựa chọn, sự chọn lựa này rất là
quan trọng, phải xem lời nói việc làm của vị thiện tri thức đó có tương ưng
không, xem chính thầy ấy có phải là thực sự làm, có tu có học hay không, tri kiến
của Ngài có chính xác không? Ngài có sư thừa không? Ngài học từ đâu? Điều này rất
quan trọng. Nếu Ngài có sư thừa, một mạch truyền thừa từ trên xuống, thì pháp của
Ngài sẽ là chánh; nếu không có sư thừa, tự mình rèn luyện mài dũa làm ra, như vậy
thì không nhất định có thể tin cậy. Nếu như sư phụ của mình đã hoàn tục rồi, quý
vị theo Ngài thế độ, mà Ngài đã hoàn tục, có trường hợp này không? Cũng có chứ.
Hoặc Ngài phá giới, Ngài không đúng như pháp, bị Tăng đoàn diệt tẩn, tức bị đuổi
ra khỏi Tăng đoàn, thành ra quý vị không còn Lão sư nữa, không còn Lão sư thì quý
vị được “chọn lại bậc minh sư để y chỉ mà ở”, không được “tự tiện buông lung”,
hiện giờ không có người quản tôi, thì tôi có thể tự tiện làm loạn rồi, như vậy
là trái ngược với chí nguyện xuất gia của quý vị. Tương ưng với đoạn này thì trong
Đệ Tử Quy cũng nói “gần người hiền, tốt
vô hạn, đức tiến dần, lỗi ngày giảm”. Cho nên nhất định phải lựa chọn minh
sư để thân cận, thì đức hạnh của quý vị mới ngày một đi lên, tu hành, học vấn của
quý vị mới có thể tăng trưởng.
Tiếp theo điều
29:
“Tuổi đủ 20, am hiểu
việc xuất gia, thì nên cầu thầy cho phép tiến tới giới Tỳ-kheo. Nếu tuổi chưa đủ
20 hoặc tuy đủ 20 tuổi, mà các duyên chưa đủ, không thể tiến tới giới Tỳ-kheo,
thì nên phát tâm Bồ đề, trước cầu thọ giới Bồ tát, làm Bồ-tát Sa-di học pháp Đại
thừa. Đợi đủ tuổi, đủ duyên, lại tiến tới giới Cụ túc, thành Bồ-tát Tỳ-kheo.”
Chúng ta xuất gia tu hành đều phải nỗ lực hướng lên trên,
trước thọ giới Sa di, sau thọ giới Tỳ-kheo, giới Bồ-tát, không ngừng nâng cao
lên. Thọ giới Tỳ-kheo là có điều kiện, thứ nhất là tuổi phải đủ 20, thứ hai là
đối với việc xuất gia chính mình cũng đã am hiểu rõ ràng rồi, am tức là hiểu
rõ. Không thể mới xuất gia, điều gì cũng không biết, liền thọ giới Tỳ kheo, trở
thành đại Tỳ kheo, kết quả là làm gì đều không như pháp, vả lại làm tổn hại
hình tướng Phật môn, và bị người chế nhạo. Cho nên thọ giới Tỳ kheo không nên gấp,
trước nên học giới Tỳ kheo, sau theo Hòa thượng (Thân giáo sư) của quý vị để sinh
sống sinh hoạt ở trong Tòng Lâm, sinh sống cùng với Tăng đoàn, quý vị từ từ
quen với đời sống xuất gia rồi. Thường ngày từ sáng đến tối, như giới luật của
Sa di, quý vị đều phải thực hiện được. Bởi giới Sa di và oai nghi đều là nền tảng
của giới Tỳ kheo, rất nhiều điều giống nhau, quý vị đều làm được hết rồi, đó là
lúc quý vị có thể tiến lên một bậc để thọ giới Tỳ kheo, nhưng cũng phải được sư
phụ đồng ý. Quý vị thấy hiện nay Trung Hoa Đại Lục truyền giới ngày càng hợp lí
theo như pháp, quy củ cũng ngày càng nghiêm minh. Quý vị muốn thọ giới, tất phải
được sư phụ xuất gia của quý vị đồng ý, không thể tùy tiện tự mình muốn thọ thì
thọ.
Tuổi chưa đủ 20 thì không được thọ, vì quy định giới Tỳ
kheo là 20 tuổi trở lên, cho nên từ 20 tuổi trở lên mới có thể thọ. “Hoặc tuy đủ
20 tuổi” nhưng “các duyên chưa đủ”, thí dụ quý vị là mới xuất gia, không hiểu
được những sinh hoạt đi ở hành trì của người xuất gia, hoặc quý vị không có
duyên phận đi thọ giới, như vậy thì không cần phải gấp, “Không thể tiến tới giới
Tỳ kheo”, có thể trước “phát tâm Bồ đề”, cầu giới Bồ-tát. Giới Bồ-tát không có
hạn chế về tuổi đời, mọi người đều có thể thọ, chỉ cần phát tâm Bồ-đề. Phát tâm
Bồ-đề là giới thể của giới Bồ tát, quý vị đã phát tâm Bồ-đề thì có thể thọ.
Nhưng tâm Bồ đề này không phải ai cũng có thể phát ra được, thật sự phát tâm rộng
độ tất cả chúng sanh, xả mình vì người, “chỉ
cầu chúng sanh đều lìa khổ, không cầu bản thân mình được an vui”. Đầu mắt
xương tủy của Bồ tát cũng cung cấp cho chúng sanh, chúng sanh có nhu cầu mắt của
tôi, thì tôi móc mắt ra; chúng sanh cần xương tủy của tôi, thì tôi đem xương tủy
của tôi cho họ, toàn bộ thân mạng đều có thể dâng tặng, tôi vì chúng sanh có thể
đều đem tất cả ra dâng tặng, như vậy là có đại Bồ đề tâm. Tôi chính mình phải nỗ
lực tu hành, tương lai vãng sanh thành Phật rộng độ chúng sanh, như vậy là phát
đại Bồ-đề tâm, người như vậy có thể thọ giới Bồ-tát. Tuy không thọ giới Tỳ-kheo,
mà đã thọ giới Bồ tát, thì gọi là “Bồ-tát Sa-di”.
Giới Bồ-tát không chỉ người mới có thể thọ, kỳ thật quỷ thần
cũng có thể thọ, trời, rồng, súc sanh đều có thể thọ, rồng là súc sanh, cho nên
tất cả chúng sanh mười pháp giới đều có thể thọ giới Bồ-tát. Vả lại giới Bồ-tát
rất thù thắng, đã thọ một lần là về sau vĩnh viễn đều có giới Bồ tát, tức là đều
có hiệu lực, không như giới Tỳ kheo, giới Sa di chỉ là tận hình thọ, quý vị đời
này chết rồi, thì đời sau quý vị phải thọ lại. Giới Bồ tát không như vậy, quý vị
có thể bắt đầu từ nay đến tận cùng vị lai, một đường thẳng tới thành Phật đều
có hiệu lực, nên giới Bồ tát rất là thù thắng. Nhưng phải là thật phát tâm làm
Bồ tát mới được, nếu không thì chỉ thọ những điều giới chứ không có tác dụng.
Như người tại gia, có tại gia Bồ tát giới, tổng cộng có 6 giới trọng và 28 giới
khinh, Ưu-bà-tắc, đó là giới Bồ tát tại gia; xuất gia thông thường là thọ Phạm
Võng Bồ tát giới gồm 10 giới trọng và 48 giới khinh, chúng tôi trong Tam đàn Đại
giới cũng thọ 10 giới trọng, 48 giới khinh này. Nhưng đó là thế nào? Quý vị phải
đã thật phát đại tâm, thì quý vị mới là Bồ tát chân chánh; nếu chỉ đã thọ điều
giới, mà không phải là Bồ tát thật, là Bồ tát giả, gọi là Bồ tát đất, Bồ tát đất
qua sông chính thân mình đều khó giữ, thì quý vị làm sao có thể rộng độ chúng
sanh? Cho nên phải “học pháp Đại thừa”, học thì nhất định phải thật sự tu.
“Đợi” tức là phải chờ đợi đủ 20 tuổi, các duyên đủ rồi,
nhân duyên đầy đủ, thì quý vị có thể lại tiến một bước thọ Cụ túc giới, tức là
giới Tỳ kheo, chúng nữ thì thọ giới Tỳ kheo ni. Theo Luật Tứ Phần, thì giới Tỳ
kheo có 250 điều; giới Tỳ kheo ni có 348 điều, cho nên quý vị trước phải học
cho tốt. Giới trường thời cổ yêu cầu quý vị đều phải học thuộc lòng, những Sư
cô ấy học thuộc 348 điều giới, thì mới có thể thọ giới Tỳ kheo ni; 250 điều giới
Tỳ kheo mà quý vị học thuộc rồi, mới có thể thọ giới, nếu quý vị không nhớ được,
thì quý vị làm sao mà có thể thọ trì được? Yêu cầu rất nghiêm khắc, không phải
tùy tùy tiện tiện. Như Đại sư Ngẫu Ích sau khi xuất gia, cũng là thọ Bồ tát giới
trước, năm 24 tuổi xuất gia, 26 tuổi thọ giới Bồ tát, đến 32 tuổi mới thọ giới
Tỳ kheo, Ngài thọ giới Tỳ kheo khá muộn. Ngài rất chân thật học giới, thật sự
hiểu rõ mới đi thọ giới, không phải tham hư danh.
Tuy nhiên hiện nay mà nói thọ giới Tỳ kheo, thực sự có hình
thức, khó có thật chất nữa. Lời này là của Đại sư Ngẫu Ích, nói ra cũng rất đau
lòng, Ngài nói: kể từ thời Nam Tống trở về sau thì gần như không có Tỳ kheo
chân chánh nữa. Mà quý vị muốn thọ giới Tỳ kheo, phải dùng pháp yết ma, pháp yết
ma này thì ở Trung Hoa thường dùng Thập sư, là mười người xuất gia, bởi giới luật
yêu cầu tối thiểu năm vị Tỳ kheo trở lên để truyền giới cho quý vị. Đã gần như
không có Tỳ kheo nữa, thì quý vị tìm đâu ra được năm vị Tỳ kheo để truyền giới
cho quý vị? Không đầy đủ số Tăng để làm pháp yết ma, thì rất khó đắc giới. Cho
nên dựa theo pháp yết ma mà nói, thì hiện nay không đắc giới được. Đại sư Hoằng
Nhất tự nói mình không đắc giới, Đại sư Ngẫu Ích cũng tự nói Ngài không đắc giới
Tỳ kheo, đó là bậc Đại đức, chỉ cả đời làm Sa di Bồ tát giới. Đại sư Hoằng Nhất
tự xưng là xuất gia Ưu-bà-tắc, chỉ thọ năm giới và giới Bồ tát, làm Ưu-bà-tắc,
nhưng đã xuất gia, cạo tóc rồi, cho nên xưng xuất gia Ưu-bà-tắc. Nhưng dù không
đắc giới Tỳ kheo, không thể nói không học giới Tỳ kheo, như Đại sư Hoằng Nhất
nói: quý vị vẫn phải đi thọ qua, quý vị thọ rồi mới có thể học, thì người khác sẽ
không thể nhạo báng quý vị được. Tôi đã thọ qua rồi, tôi hiện nay phải học, thì
giống như đang thực tập học giới, thọ giới rồi giống như là bắt đầu học. Không
như người xưa, học tốt hết rồi mới thọ giới. Chúng ta hiện nay thì trước đi thọ
hình thức, sau lại học thật tốt.
Nếu trong các quý vị có người chân chánh phát tâm xuất gia,
có chí hướng lên, mong tiếp nối dòng Phật, tiếp nối dòng Tăng, dòng Tăng là dựa
vào giới Tỳ kheo, thì quý vị phải nghiêm túc học giới Tỳ kheo, tương lai có thể
như lý như pháp để truyền giới. Làm sao truyền? Đại sư Ngẫu Ích nói: mạt thế muốn
chân chánh đắc giới Tỳ kheo, giới Sa di, giới Bồ tát, chỉ có dựa vào Chiêm Sát
Luân Tướng. Đó là phương pháp, Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh, trong đó là
dùng Chiêm Sát Luân Tướng để cầu, tức là xem chính mình có đạt giới Tỳ kheo hay
không, điều này rất khó. Khi Đại sư Ngẫu Ích hỏi chính mình đắc được giới gì?
Ngài trong lúc An cư Kiết hạ, ba tháng trì chú, tu tâm thanh tịnh, sau đó Ngài
rút thẻ. Ngài đã làm một số thẻ thăm, thứ nhất là thẻ Hòa thượng, bởi vì Ngài
đã thọ giới qua 10 hạ, từ 10 hạ trở lên có thể làm Hòa thượng rồi, xem chính
mình đắc được những gì, đắc Hòa thượng hay không đạt đến Hòa thượng? Có đắc giới
Tỳ kheo không? Có đắc giới Bồ tát Sa di không? Hoặc Sa di không đắc, thì có được
Bồ tát giới Ưu-bà-tắc không? Hoặc thậm chí là Ngũ giới, hoặc thậm chí là người
Tam quy, tất cả giới đều không có thì làm Tam quy, thì tôi làm thiện nam, tín nữ
tin Phật pháp. Làm những thẻ như vậy để hỏi. Cả một hạ, mỗi ngày trì chú, để tu
tâm thanh tịnh, sau đó đốt cánh tay cúng Phật để cầu lấy thẻ đã làm đó, Ngài cầu
được chính mình là Bồ tát giới Sa di. Nên từ đó về sau, Ngài không dám xưng
mình là Tỳ kheo nữa, chỉ dám xưng là Bồ tát giới Sa di. Đây là làm người chân thật,
không làm người giả dối.
Chúng ta đi thọ giới, trên thật tế là để học tập, học thì
phải học cho thật tốt. Sáng sớm mỗi ngày, quý vị có thể dùng Chiêm Sát Tướng
Pháp để hỏi xem có đắc giới Tỳ kheo (mạt thế muốn đắc giới, chỉ có dựa vào
phương pháp này), quý vị phải thật sư tu trì tinh nghiêm, trường hợp quý vị có
thể đắc giới Tỳ kheo, thì tốt quá rồi! Quý vị liền là Tăng nhân, là Đại Tăng
chân chánh. Giả như có năm người đều dùng cách này đắc giới pháp, thì đây là
Tăng đoàn đã xuất hiện, 5 người đó dùng pháp yết ma thì có thể truyền giới. Cho
nên phải thật sự đem Phật pháp phục hưng trở lại, có thể chỉ có nương vào
phương pháp này, bởi vì từ thời Nam Tống trở về sau, Tăng chủng đoạn đứt, gần
như không có chân chánh Tỳ kheo nữa. Nói lời thật, không có Tỳ kheo cũng tức là
không có Sa di, vì sao vậy? Vì muốn đắc giới Sa di, thì tối thiểu phải có một Tỳ
kheo truyền giới cho quý vị. Hiện nay thông thường là hai vị Tỳ kheo, quý vị thấy
khi quý Ngài làm nghi thức đều cần hai người, một là Hòa thượng, một là yết ma,
hai vị đó để truyền giới cho quý vị. Nếu chỉ có một vị Tỳ kheo là không được, thì
đương nhiên quý vị không đắc giới Sa di. Cho nên học giới Sa di, thì không nên
tự xưng là Sa di, tự xưng Sa di gọi là Đại vọng ngữ, quý vị không phải là Sa di
mà nói tự mình là Sa di. Khi trước quý vị không biết, trong trường hợp quý vị lỡ
xưng vậy rồi, nói tôi là Tỳ kheo, tôi là Sa di, thì thôi không tính nữa, bởi vì
quý vị không biết, không biết là không tội, nhưng đó gọi là tăng thượng mạn. Hiện
nay đã biết rồi, còn tự xưng mình là Tỳ kheo, là Sa di, thì gọi là Đại vọng ngữ,
mà Đại vọng ngữ thì không chừng đọa địa ngục A Tỳ. Không thể được! Nên lão lão
thật thật, tôi là người thế nào thì nói là thế đó, Đại sư Hoằng Nhất nói chính
mình là xuất gia Ưu-bà-tắc, chúng ta làm xuất gia Ưu-bà-tắc cũng phải xấu hổ.
Chúng ta đương nhiên phải hổ thẹn, khi khoác lên chiếc Ca sa này, nhưng chúng
ta phải thật thà, làm tốt tất cả những hư danh đã thọ này.
Điều tiếp
theo:
“Căn Bản Tạp Sự nói:
Nếu ai nương nhờ thầy, ở trong Phật pháp được cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục,
đem tâm tịnh tín, xuất gia tu hành, thì người ấy đối với thầy, dầu cho đến suốt
đời cúng dường tứ sự, cũng chưa thể báo đáp ân thầy.”
Sau cùng dẫn câu nói từ Bộ Luật căn bản, đây là kinh do
Ngài Pháp sư Nghĩa Tịnh triều nhà Đường dịch, nói vì sao phải hầu thầy. Bởi vì
ân đức của thầy đối với chúng ta rất lớn, giúp chúng ta xuất gia, ân đức này còn
nặng hơn so với ân đức của cha mẹ. Trên thực tế, trong kinh nói, vị Hòa thượng
mà đời này giúp chúng ta xuất gia, thì ít nhất trong quá khứ đã bảy đời là cha
mẹ của chúng ta, nên Ngài mới có duyên phận thế độ cho chúng ta. Cho nên chúng
ta đối với thầy thì phải như đối với cha mẹ vậy, phải vô cùng tôn trọng, phải hiếu
kính. “Nếu ai nương nhờ thầy”, chúng ta nương tựa một vị sư phụ, ở “trong Phật
pháp, được cạo bỏ râu tóc”, tức là xuất gia cạo tóc mặc lên mình Tăng phục.
“đem tâm tịnh tín, xuất gia tu hành”, động cơ của xuất gia phải trong sáng, vì tôi
muốn tu đạo, vì thành đạo mà đi xuất gia, không phải là tôi cùng đường, nên vào
ở trong cửa Phật để có cơm ăn, xuất gia như vậy thì không gọi là tịnh tín; hoặc
hiện nay tôi bị thất tình rồi; tôi cảm thấy xuất gia là mạnh mẽ hơn so với tự tử,
đây là gặp sự cố tình cảm, không sáng suốt để lựa chọn vào trong cửa Phật, gọi
là ‘trốn vào cửa không’, tâm như vậy đều là không chánh, không phải tâm tịnh
tín. Nên vì sao chúng ta xuất gia? Vì thiệu long Phật chủng (nối dòng giống Phật),
hoằng pháp lợi sanh, như vậy mới là xuất gia chân chánh.
Quý vị nương tựa vị sư phụ để xuất gia, “cho đến suốt đời”,
tận hình thọ, đời này quý vị vì Ngài “cúng dường tứ sự”, tứ sự là gồm: ăn uống,
y phục, tọa cụ, thuốc men đem để cúng dường Ngài, đều không thể báo ơn của Ngài
được. Nên ơn của thầy và cha mẹ đều vô cùng lớn lao. Nên dù cho sư phụ không
còn ở đời nữa, thì chúng ta vẫn nhớ mãi không quên ơn của Ngài. Như Sư phụ Thượng
nhân chúng ta, có các vị thầy truyền trao cho Ngài chánh pháp là: Giáo sư
Phương Đông Mỹ, Đại sư Chương Gia, Lão sư Lý Bỉnh Nam, sư phụ đều treo hình của
các Ngài đối diện trong phòng quay hình, ngày ngày giảng kinh đối trước quý
Ngài, không quên ơn thầy. Trong Đệ Tử Quy cũng nói “Tang tận lễ, tế tận thành, phụng người mất, như lúc sống”, đây là
nuôi lớn đức trọng của chính mình. Oai nghi hầu thầy chúng tôi giảng đến đây
xong rồi.
Mời xem tiếp
oai nghi thứ ba:
“Thứ ba, theo thầy đi ra bên ngoài”
Đây nói đi ra ngoài cùng sư phụ, cần phải chú ý, thứ nhất:
“Không được ghé qua
nhà người”
“Ghé qua”, tức như sư phụ thăm nhà này, còn riêng quý vị rời
khỏi nhà đó, đến nhà khác hoặc đi gặp khách, hoặc thăm bạn hữu, quý vị tự tiện
làm việc của mình, như vậy là không được. Cần phải lúc nào cũng theo bên cạnh
sư phụ, không thể rời khỏi sư phụ nửa bước, gặp lúc sư phụ cần quý vị giúp đỡ,
thì quý vị có thể nhanh chóng đến hầu thầy.
Đoạn tiếp:
“Không được dừng ở
bên đường, cùng người nói chuyện”
Đi cùng với sư phụ, gặp được
người thân bạn hữu tốt, sư phụ thì đã đi qua rồi, quý vị còn đứng lại nói chuyện
với họ, như vậy là rất không nên. Lúc đó không thể cùng họ nói chuyện, phải
nhanh nhanh đi theo sư phụ.
Đoạn thứ ba:
“Không được ngoái
nhìn trái phải, mà phải nhìn thẳng, theo sau thầy”
Chúng ta theo sau thầy, không được nhìn trái, nhìn phải, đặc
biệt là lúc có người đến. Chúng tôi cùng với Sư phụ Thượng nhân ra đi, có lúc đến
những Đạo tràng Pháp hội, như người Malaysia vừa mới tiến hành Phật thất, có rất
nhiều người tại Đạo tràng xếp hàng chào mừng sư phụ, chúng tôi theo sau sư phụ,
cũng cùng chắp tay. Nhưng không thể nhìn bên trái, bên phải, gật đầu với họ,
chào hỏi họ, vì người ta không phải chào mừng quý vị, mà là chào mừng sư phụ, quý
vị nếu như rất tùy tiện tiếp nhận sự chào mừng đó, như vậy không tốt. Phải nên
“nhìn thẳng, theo sau thầy”, không nên nhìn hai bên, mà nhìn sau lưng sư phụ,
theo sư phụ bước đi, như vậy thấy rất trang nghiêm, đây là oai nghi. Sư phụ có
thể làm gì đó, vì người ta chào mừng sư phụ, sư phụ mỉm cười, gật đầu với một
nơi nào đó, đây là lễ tiết, quý vị chớ học theo sư phụ mà gật đầu.
Đoạn thứ tư:
“Đến nhà đàn việt,
nên đứng một bên, thầy bảo ngồi, mới ngồi”
“Đàn việt” là chỉ cho tín chúng, người Cư sĩ muốn cúng dường
sư phụ của quý vị, thỉnh sư phụ đến làm khách, để cúng dường, họ sẽ mời sư phụ
lên tòa. Chúng ta cũng không nên tự mình lập tức ngồi xuống, phải đứng ở một
bên, đứng bên cạnh thầy, sau đó xem xem hoàn cảnh ấy có chỗ cho mình không,
không thể tùy tiện ngồi. Người chủ cảm thấy rất khó chịu, rất không ngay ngắn,
có thể người ta chuyên môn có khách quý nên đã sắp xếp chỗ ngồi tốt rồi, mời quý
vị ngồi xuống, quý vị là người xuất gia, người ta không muốn để quý vị đứng, vì
vậy quý vị nói đứng tốt hơn, sau đó thầy bảo quý vị ngồi thì quý vị mới ngồi, nếu
không bảo quý vị ngồi, thì không nên ngồi. Dù cho đàn việt, tức là thí chủ họ
nói có thể ngồi: “mời thầy ngồi”, lúc đó quý vị phải làm sao? Có nên ngay lập tức
ngồi xuống hay không? Không được. Quý vị nên đến hỏi sư phụ: thưa sư phụ, con đến
đó ngồi được không? Sư phụ gật đầu thì quý vị liền ngồi. Nếu thầy không nói gì,
thì quý vị vẫn đứng, dù cho thí chủ mời quý vị ngồi, quý vị liền gật đầu nói:
hãy đợi đã, hãy đợi đã. Bởi vì quý vị cũng không biết sư phụ còn có sắp xếp người
nào nữa không, có thể sư phụ muốn để chỗ ngồi đó cho một vị Cư sĩ, hoặc vị Pháp
sư, nếu quý vị ngồi chỗ đó rồi, thì không dễ để thay đổi nữa. Đấy là những tiểu
tiết cần phải chú ý, luôn luôn cẩn thận, gọi là “Việc tuy nhỏ, chớ tự làm, ẩu tự làm, thiếu đạo con ”.
Tiếp theo điều
thứ năm:
“Đến chùa khác, thầy
lạy Phật hay mình lạy, không được tự tiện đánh chuông khánh”
Theo sư phụ đi ra ngoài, đến thăm Đạo tràng Tự viện của người
khác, thông thường sư phụ, đặc biệt là có uy tín của người lớn, đều sẽ tiếp đãi
đối phương long trọng. Tiếp đãi ở Đạo tràng, thông thường là phải đến đại điện
để lễ Phật, phương pháp tiếp đón rất long trọng, thì thường còn phải dùng xướng
tụng để chào mừng, thí dụ như xướng bài Lò Hương Tán, sau đó thỉnh sư phụ đến
thượng hương, sau đó sư phụ đến lễ bái. Lễ lạy xong rồi, có thể lời nói của đối
phương đều thuộc về bậc vãng bối, có thể họ còn cao xướng: chúng ta đảnh lễ sư
phụ gì gì đó ba lạy. Sư phụ thường nói không lạy, hoặc là không lạy, hoặc nói vấn
tấn. Đối phương đều dùng lễ tiết như vậy. Chúng ta lúc đó cũng đừng bất cẩn làm
theo, ở sau lưng sư phụ lạy, lúc thầy lễ lạy, thì quý vị phải đứng một bên làm
thị giả.
Trong truyền thống của Tòng Lâm, còn có trải ngọa cụ, điều
này Sa di phải học. Khi trải ngoạ cụ, quý vị phải giúp thầy trải ngọa cụ, trải
lên đệm lạy, thì sư phụ mới lạy Phật. Thầy lễ Phật, quý vị không được tự mình
đi đánh chuông khánh, vì nếu Đạo tràng đánh chuông khánh đều là biểu thị chào mừng,
như chuông lớn trong chỗ chúng ta đây, để lúc khách quý lễ Phật, gõ chuông một
cái, đó là thuộc về chào mừng long trọng. Người khác, chủ nhân đều không đánh
chuông, quý vị tự mình đi đánh chuông khánh, cũng mất phép lịch sự. Nếu tự mình
lạy Phật, quý vị đã đến Tự viện, đương nhiên quý vị là tiểu Sa di, thì người ta
sẽ không tiếp đãi long trọng quý vị, quý vị nghĩ không có người tiếp đãi tôi,
thì tôi tự mình trước đánh chuông để lễ Phật, đây cũng không đúng, là tự chào mừng
mình ư? Những điều này đều thuộc về quy củ, quý vị làm sai thì làm trò cười cho
người ta.
Đoạn tiếp:
“Nếu đi núi, phải
mang tọa cụ theo. Nếu đi xa, không được rời thầy quá xa. Nếu lội qua nước, thì
phải cầm gậy dò từ từ cạn sâu”
Theo sư phụ muốn thăm các
Đạo tràng, thời cổ đều phải đi bộ, phải trèo đèo vượt núi, quý vị phụ tá cho sư
phụ, quý vị không thể sợ khổ, sợ mệt, mà phải chăm non sư phụ thật chu đáo.
“mang tọa cụ theo”, vì đồ đạc của người xuất gia rất đơn giản, chỉ là ba y, một
bát, thêm tọa cụ. Thời cổ lúc đi bộ thăm các nơi, đi đến đâu thì ngủ ở đó, giữa
núi, dưới gốc cây, tùy chỗ có thể ngồi để nghỉ ngơi. Chúng ta mang tọa cụ của
sư phụ, tọa cụ là để ngồi, giúp Ngài mang theo những đồ đạc. Tuy nhiên hiện nay
không còn khổ như vậy, thí dụ chúng ta đi Malaysia thì không thể đi bộ, mà phải
ngồi máy bay, quý vị cũng phải giúp sư phụ mang hành lí, điều này có thể mở rộng
thêm.
“Nếu đi xa, không được rời thầy quá xa”, nếu quý vị phải tự
mình rời xa thầy, thí dụ như quý vị đi lấy thứ gì đó giúp sư phụ, thì phải mau
chóng trở lại, không được rời thầy quá xa, khiến sư phụ chờ đợi lo lắng. Lúc đi
qua sông, lội nước, chỗ nước cạn mới đi qua, trước cầm gậy để dò nước cạn sâu,
có thể qua được thì mới qua. Nếu nước quá sâu, thì có thể tìm một bè tre, thậm
chí xem có đò phà hay không thì gọi, đó là ý nghĩa. Mở rộng cho chúng ta hiện
nay, ví dụ quý vị theo thầy đi ra ngoài, phải nhanh chóng giúp sư phụ thẻ lên
máy bay, mua vé lên xe có phải không? Đó là những công việc cụ thể, chúng ta đều
phải đi làm. Cho nên học giới luật phải biết vận dụng trong thời hiện nay,
không thể học cứng nhắc, nghĩ rằng tôi hiện nay không phải lội qua sông, nên điều
này không cần tuân thủ nữa, không thể nghĩ như vậy.
Tiếp theo điều
thứ bảy:
“Nếu chợt tách nhau
mà đi, hẹn gặp lại ở chỗ nào, thì không được đến sau thầy”
Nếu ngẫu nhiên phải chia ra mà đi làm việc, rời khỏi sư phụ,
thì quý vị cần phải hẹn với sư phụ thời gian, địa điểm để gặp lại. Quý vị không
được đến trễ, phải đến sớm, quý vị có thể chờ sư phụ, không thể để sư phụ chờ quý
vị, điều này phải biết để tôn trọng thầy.
Điều thứ tám:
“Thầy thọ trai, phải
đứng hầu xuất sanh, thọ trai xong, phải đứng đợi thu nhận đồ cúng dường”
Sư phụ đi tiếp thọ cúng dường của tín chúng, tức là đến ứng
cúng. Thông thường trước khi để tiếp thọ ứng cúng đều phải có làm nghi thức
cúng dường, trong Tự viện chúng ta cũng như vậy, truyền thống Tòng Lâm đều yêu
cầu như vậy, lúc bắt đầu Trai tăng, tức là trước khi ăn cơm phải niệm chú cúng
dường, phải xuất thực, “xuất sanh” tức là xuất thực, các quý vị lưu ý, sáng
trưa đều có, tay cầm dao nĩa để xuất thực, thông thường là lấy 7 hạt cơm, hoặc
là ít cháo để xuất thực, cúng dường cho chúng quỷ thần. Việc này cần phải có thị
giả để làm, tuy nhiên nếu sư phụ đích thân làm, thì quý vị giúp sư phụ làm, sư
phụ không làm thì quý vị tự mình được làm. Kiết Trai, ăn cơm xong rồi, đã xướng
chú Kiết-trai xong, thì quý vị phải “đứng đợi thu nhận đồ cúng dường”, quý vị đứng
bên cạnh sư phụ. Lúc đó thường thường tín chúng sẽ đến cúng dường, cúng dường vật
dụng, tiền, những thứ đó gọi là sấn, tức là phẩm vật cúng dường của thí chủ. Quý
vị thu cất giúp sư phụ. Oai nghi Theo Thầy đi ra bên ngoài giảng đến đây thôi.
Tiếp theo oai
nghi thứ tư:
“Thứ tư, nhập chúng”
Dạy chúng ta đến trong bốn chúng sống cùng đại chúng ra
sao, trong đây đặc biệt nói ở cùng với chúng xuất gia, trong đời sống sinh hoạt
phải chú ý thế nào? Bởi vì xuất gia trải qua đời sống Tăng đoàn, tức là sống
trong một gia đình lớn, sinh hoạt tập thể mà quý vị không tuân theo quy củ, thì
sẽ phát sinh mâu thuẫn với người khác, tức là sanh ra không hòa hợp, Tăng đoàn
nhất định phải hòa hợp. Chúng ta lúc niệm Tam Quy “Quy y Tăng, chúng trung tôn”, chúng tức là đoàn thể, Tăng đoàn là
tôn quý nhất trong tất cả đoàn thể, vì sao vậy? Vì Tăng đoàn hòa hợp, đều tu Lục
hòa kính, mỗi một người đều tuân theo quy củ thì sẽ không phát sinh mâu thuẫn.
Tất cả chúng ta đều phải chú ý, đặc biệt trong những ngày này, chúng ta đang
trong kỳ xuất gia ngắn này, thì phải học tập làm sao để đời sống này, nhanh
chóng có được hiệu quả.
Điều thứ nhất:
“Không được tranh chỗ
ngồi”
Không thể tranh giành chỗ ngồi. Điều này rất đơn giản, thì tôi
không cần nói nhiều nữa, bởi thời gian có hạn, phần quan trọng tôi nói nhiều
hơn. Đây là phải khiêm nhường, không thể tranh chỗ ngồi.
Điều thứ hai:
“Không được trên chỗ
ngồi mà gọi nhau, nói cười”
Quý vị đang trong nhà
Pháp, thì quý vị không thể tùy tiện nói chuyện, cười giỡn, điều này làm ảnh hưởng
người khác, ảnh hưởng tới sự thanh tịnh của đạo tràng.
Điều thứ ba:
“Trong chúng có mất
oai nghi, nên ẩn ác dương thiện. Không được kể sự lao nhọc để tỏ công của mình”
Khi ở chúng, thấy có người khác có chỗ không như pháp, có
lúc không đúng oai nghi, thì quý vị cần làm thế nào? Quý vị cần “ẩn ác dương
thiện”, không nên đi nói với người khác, không nên phê bình, thấy người ta
không đúng, thì chúng ta nên khoan dung. Nếu như họ có thể tiếp nhận thì chúng
ta dùng thiện ý nhắc nhở họ, không thể chỉ trích, cười chê họ, điều đó không
nên. Không thể “kể sự lao nhọc để tỏ công của mình”, tức là tự mình khoe
khoang, ‘giới luật tôi tốt, oai nghi tôi đầy đủ”, chính mình tự cao tự đại,
tăng thêm phiền não ngạo mạn, giữ giới như vậy là không đúng rồi. Thường thường
người giữ giới tinh nghiêm, phải có thử nghiệm như vậy, xem xem quý vị trì giới
tinh nghiêm, quý vị có tâm ngạo mạn không. Nếu quý vị cảm thấy mình không có lỗi
lầm, mà thấy người khác không như pháp, tức là quý vị ngạo mạn, như vậy khẳng định
là quý vị trì giới không tốt. Tại sao? Nhân giới được định, nhân định khai trí
huệ, quý vị như vậy thì không có định, quý vị còn khởi lên phiền não, tức là quý
vị chưa có định, thì làm sao có thể nói quý vị trì giới tốt được?
Phải ẩn ác dương thiện, phải quán sát chính mình có phạm giới,
có mất oai nghi không, không nên nhìn người khác. Chính mình làm được tốt, cũng
không nên đi tỏ công, khoe khoang, điều này là không thể được, phải tu bổ đức
khiêm tốn của mình. Trong Đệ Tử Quy cũng nói “thấy người tốt, nên sửa mình”, “thấy người xấu, tự kiểm điểm”, còn
có “khen người thiện, tức là tốt, người
biết được, càng tốt hơn. Khen người ác, tức là ác, ác cùng cực, tai họa đến”.
Không thể khen người ác, thấy người khác rất như pháp, rất có oai nghi, có thể
tán thán, khích lệ họ. Tuy nhiên nếu họ nghe rồi mà huênh hoang tự mãn, thì quý
vị không nên khen ngợi nữa, vì biết họ chịu không được tán thán; Nếu họ rất
khiêm tốn nói ‘không có gì, tôi làm còn chưa được tốt’, thì quý vị khen ngợi
nhiều mấy câu cũng tốt. Do đó không thể khen người ác, không thể khoe việc tốt
của mình.
Điều thứ tư:
“Không ngủ trước người,
không dậy sau người”
Đây là không thể lười biếng. Chúng ta ngủ không thể ngủ trước
người, tức là không ngủ quá sớm, đương nhiên có chênh lệch chút thời gian cũng được.
Thí dụ chúng ta chỉ tịnh ban đêm là 9 giờ rưỡi, thì phải tắt đèn đi, đó là thời
gian đi ngủ. Quý vị không thể nói tôi hôm nay làm việc rất mệt mỏi, nên 7 giờ
rưỡi tôi đi ngủ, như vậy là ngủ quá sớm rồi. Thức dậy cũng không thể sau người,
chúng ta nên thức dậy sớm, đánh bảng thì dậy, không thể ngủ nướng. “Sáng dậy sớm, tối ngủ trễ”, nhất định
phải làm được, đây là Đệ Tử Quy nói, “lúc
chưa già, quý thời gian”, chớ để đến già mới học đạo, quý vị đến lớn tuổi mới
học đạo thì trễ rồi. Tôi biết có một người, ông ta nói với tôi về một đồng nghiệp
của ông, đó là một vị giảng viên Đại học. Lúc có người khuyên ông ta học Phật,
thì ông ta đối với Phật pháp rất hứng thú, cũng không phản đối, nhưng ông nói:
tôi giờ học Phật thì quá sớm, đợi sau khi tôi nghỉ hưu sẽ học tốt. Khuyên ông
ta mấy lần, nhưng ông đều chần chừ như vậy. Qua mấy năm sau, ông đã qua đời,
chưa đến lúc nghỉ hưu đã chết rồi, nên rất là đáng tiếc.
Phật pháp khó nghe, đời này quý vị gặp được Phật pháp mà
không tu tốt, để lỡ qua cơ hội của đời này, thì đời sau có thể không có cơ hội
gặp Phật pháp nữa. Nhất định phải nắm thật chắc cơ duyên này để học Pháp, “lúc chưa già, quý thời gian”, chúng ta
mỗi ngày tuổi một lớn, muốn học đạo thì ngày càng khó khăn. Tuổi trẻ học điều
gì cũng nhạy bén, khai ngộ cũng nhanh chóng, chứng quả cũng mau. Khi tuổi đã lớn
rồi, 50, 60 tuổi mới học, cũng không thật dễ dàng nữa, đối với kinh điển quý vị
cũng không nhớ, tâm thì rất nhiều tạp niệm, cho nên không dễ dàng; thân thể
cũng không khỏe mạnh, tuổi trẻ quý vị muốn dụng công, 7 ngày 7 đêm không ngủ
cũng không sao, đến già rồi thì không được nữa. Nên không để lãng phí thời
gian, nhất định phải dụng công, ngủ ít tu hành nhiều, tụng kinh niệm Phật nhiều,
nghe giảng kinh pháp nhiều.
Tiếp theo điều
thứ năm:
“Không được ngồi
chung tòa với đại Tỳ kheo, trừ Pháp hội lớn”
Đây là lớn nhỏ có thứ tự, “hoặc ăn uống, hoặc đi đứng, người lớn trước, người nhỏ sau”. Đại Tỳ
kheo là đã thọ Đại giới rồi, trong nhà Phật có thể nói là thân phận của các
Ngài cao hơn chúng ta, thân phận các Ngài là bậc sư trưởng, còn thân phận chúng
ta là bậc học sinh, nên chúng ta không thể ngồi ngang hàng với các Ngài, chỗ
các Ngài ngồi thì chúng ta phải dành riêng. Tuy nhiên có khai duyên, thí dụ
trong Pháp hội lớn, người rất đông, nhưng số lượng vị Tỳ kheo khá ít, hàng ghế
Tỳ kheo ngồi không đầy, thì làm sao? Chỗ ngồi đằng trước không đầy, thì quý vị
có thể lên bù vào, để cho không bị trống, như vậy thì có thể được.
Ngoài ra, nếu như sư trưởng đồng ý với quý vị, ra lệnh quý
vị, thì có thể ngồi, cùng hàng với các Ngài, như vậy cũng có thể được. Như tôi
nhớ lúc tôi mới gặp Sư phụ Thượng nhân, Ngài cùng mẹ tôi ngồi đối diện, tôi
cùng Ngài nói chuyện, năm đó tôi 24 tuổi, tôi năm nay là 40 tuổi, đó là chuyện
16 năm trước. Ở Tịnh Tông Học Hội Dallas nước Mỹ, lúc đó tôi học lên Tiến sĩ, đang
là nghiên cứu sinh, tham gia khóa Phật thất của Tịnh Tông Học Hội Dallas. Sư phụ
Thượng nhân lúc đó vừa qua 70 tuổi, Ngài giảng khai thị trong Phật thất. Giảng
xong thì Ngài ở tại phòng khách nhỏ, gặp mặt với mấy người chúng tôi. Lúc đó
người muốn gặp Sư phụ không quá nhiều, không như hiện nay muốn gặp Sư phụ một lần
đều không dễ nữa. Thật là vì tuổi Ngài đã cao, 86 rồi, hai là hiện nay rất nhiều
người tìm Ngài, cho nên Sư phụ thường tránh chỗ khác.
Lúc đó Sư phụ mới 70 tuổi, sức khỏe cũng rất tốt, người gặp
Ngài cũng không quá nhiều, đặc biệt ở nước Mỹ, nên chúng tôi liền rất dễ dàng gặp
được. Tôi vừa gặp Sư phụ, thật sợ hãi và lo lắng, hướng về Sư phụ Lão nhân Gia
đảnh lễ. Sau đó tôi hướng Sư phụ báo cáo, nói con nghe Sư phụ Lão nhân Gia giảng
Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo Kinh, rất cảm động, con tự mình đã phát 9
điều hiếu nguyện, thỉnh Sư phụ xem xét có đúng như pháp không? Làm sao có thể hộ
tốt 9 điều nguyện đó? Sư phụ liền nghe tôi đọc, sau khi đọc xong, Ngài nhìn tôi
rất vui lòng, rồi hỏi tôi ‘con từ đâu đến?’ ‘Dạ con từ Quảng Châu đến.’ ‘Con là
người Quảng Đông.’ ‘Năm nay con bao nhiêu tuổi?’, tôi nói: dạ con 24 tuổi. ‘Đại
sư Lục tổ Huệ Năng cũng là người Quảng Đông, Ngài khai ngộ lúc mới 24 tuổi’.
Lúc đó, tôi nghe rồi cũng rất hổ thẹn. Sau đó tôi nói với Sư phụ: Sư phụ xem 9
điều hiếu nguyện con đã phát đó, nên làm sao để hộ trì cho tốt? Vì sau khi Ngài
nghe xong, Sư phụ nói: Rất khó được; Sau đó Sư phụ nói: con phải giữ gìn thật tốt
nguyện của con, phải nghiêm túc học Phật, nếu không học Phật, thì con muốn tận
hiếu rất khó. Sau đó tôi liền hướng Sư phụ thỉnh cầu: Sư phụ có thể chụp cùng
con một tấm hình không? Sư phụ rất từ bi, Ngài nói: được được, con đến ngồi
đây. Ghế của Ngài ngồi là ghế sofa hai chỗ ngồi, Ngài ngồi một mình trên ghế
đó, những người khác đều ngồi ở hai bên. Sau đó Sư phụ nói, con đến ngồi bên cạnh
ta, để chụp hình cùng ta. Tôi thì đang đứng không dám ngồi. Sư phụ nói: không
sao đâu, bảo con ngồi thì cứ ngồi, sanh Phật bình đẳng. Tôi nghe Sư phụ nói như
vậy, liền đến ngồi xuống. Nên tôi chụp ảnh chung với Sư phụ lần đầu tiên, là 16
năm trước, ngồi chụp ảnh chung với Sư phụ. Như vậy thì không có phạm giới, bởi
Sư phụ cho phép tôi ngồi, thì tôi có thể ngồi, đó là biết nghe lời Sư phụ.
Tiếp đoạn thứ
sáu:
“Không được ngồi
chung tòa với bạch y, trừ pháp hội lớn”
“Bạch y” tức là cư sĩ tại gia, chúng ta đã xuất gia rồi, dù
còn chưa thọ Đại giới, thì cũng là thân phận người xuất gia, Sa di thì có khác
với Tục chúng tại gia. Nên thường không ngồi chung một chỗ với người thế tục,
đương nhiên giường ngủ nghỉ cũng không thể cùng trong một gian phòng. Đây là để
tránh cho quý vị tiêm nhiễm tập khí của người đời, bởi vì người đời thì ắt hẳn
có những người có sở thích riêng của họ, chuyện của họ nói đa số là chuyện đời,
quý vị nghe rồi khiến quý vị cũng bị ô nhiễm, cho nên phải tránh, đạo lý là chỗ
này. Đây không nói là có ác cảm với người thế tục, mà đối với người vẫn tôn trọng,
đối với Cư sĩ tại gia cũng tôn trọng, không dám coi thường. Phổ Hiền Bồ Tát nói
“lễ kính chư Phật”, đối với tất cả chúng sanh chúng ta đều phải lễ kính, huống
hồ là đối với Cư sĩ tại gia, họ cũng học Phật, cũng hộ pháp, đương nhiên chúng
ta phải tôn trọng. Nhưng căn cứ theo Luật này để nói, không ngồi chung với họ một
ghế, thí dụ ghế ngồi hai người, thì chúng ta không ngồi chung với họ. Tuy nhiên
trừ khi lúc Pháp hội lớn, chỗ ngồi còn trống, hoặc là điều kiện hiện trường
không cho phép quý vị chia chỗ ngồi, thì quý vị không thể gượng ép, làm thêm
phiền phức cho người ta. Người tổ chức thì sắp xếp rất nhiều người ngồi trên một
ghế, mà quý vị lại nói tôi không ngồi chung, tôi phải ngồi riêng, những người
khác đều nhường chỗ cho quý vị. Đây không phải là thêm phiền phức sao? Người xuất
gia không thể làm người khác thêm phiền phức, nên lúc đó đều có khai duyên.
Tiếp điều thứ bảy:
“Phàm rửa mặt, không
được sử dụng nhiều nước”
Chúng ta rửa mặt, bao gồm tắm rửa cũng không thể sử dụng
nhiều nước, đây là tích phước. Một người không thể không có phước báo, có phước
báo, thì quý vị tu hành mới thuận lợi, không có phước báo, thì quý vị tu hành gặp
chướng ngại trùng trùng. Cho nên chúng ta đều cần có phước báo để giúp đỡ cho
đường tu của chúng ta, chính mình càng tích phước, càng tiết kiệm thì càng tốt.
Quý vị biết, hiện nay tài nguyên nước rất thiếu thốn, khí hậu toàn cầu đang
nóng lên, nguồn nước ngọt càng ngày càng khan hiếm, tương lai sẽ càng ngày càng
ít đi. Nên có lần các nhà khoa học đã nói một câu, thực sự làm chấn động mọi
người, nói là: ‘tương lai những giọt nước cuối cùng của trái đất là giọt nước mắt
của con người’. Tại sao vậy? Tất cả khô cạn rồi, chỉ có nước mắt của quý vị là
nước thôi. Nên quý vị thấy được như vậy thì cần phải quý tiếc nước, chúng ta tắm
rửa không thể sử dụng nhiều nước.
Như trong đạo tràng chúng ta đây, vì đông người nên điều kiện
nhất định không bằng ở nhà của quý vị, tôi nghe nói có một đồng tu trong số những
bạn nhỏ, là con trai của Bộ trưởng, có thể đời sống ở nhà đều rất là sung túc,
đầy đủ, đến tại đây rất khó thích nghi. Nhưng đã đến đây rồi, thì quý vị phải nỗ
lực để theo tiêu chuẩn của người tu, nếu không thì quý vị cần chi đến đây? Quý
vị muốn thoải mái hơn, thì quý vị về nhà, cần chi đến nơi này? Chúng ta đây còn
có hạn chế số lượng, quý vị nhường vị trí cho người khác thì tốt. Quý vị đã đến
thì phải tu hành, tức là lấy khổ làm thầy, bỏ đi những tập khí không tốt của
mình, tập khí ham muốn hưởng thụ; không tích phước; tập khí lãng phí, đem chúng
tiêu trừ đi, như vậy liền đạt hiệu quả. Thật sự cổ Đại đức, các Ngài tắm rửa, mỗi
ngày dùng hạn định là 8 ly nước, chỉ 8 ly nước, rửa mặt, đánh răng, tắm rửa, tổng
tất cả không quá lượng nước đó. Giặt y phục cũng dùng nước đó, nước tắm xong
thì dùng giặt quần áo, đó là tiết kiệm nước.
Ngoài tiết kiệm nước ra, những thứ khác cũng đều tiết kiệm,
vì vật phẩm của thường trụ không dễ dàng có được, dựa vào tín chúng cúng dường,
nếu quý vị lãng phí quá mức, thì sao quý vị đủ sức tiêu hóa được? Cổ Đại đức
nói: “tam tâm chưa thành, giọt nước khó
tiêu”, tam tâm đó là tâm quá khứ, tâm hiện tại, tâm tương lai; chưa thành tức
là quý vị không có khai ngộ, thì uống nước đều khó tiêu hóa, vì sao vậy? Bởi vì
tương lai quý vị phải trả nợ ,“đời này
không liễu đạo, mang lông đội sừng trả”. Người tu đạo có tâm cảnh giác cao
như vậy, thì không thể thành công ư? Cho nên nơi nơi đều tích phước, thì đó là
tu hành, như điện, vật dụng, thức ăn của thường trụ, chúng ta đều không được
lãng phí. Như chúng ta ăn, mỗi ngày thọ trai xong, đem tất cả thức ăn trong bát
ăn sạch hết, không được để lại dù chỉ một hạt cơm, cơm đổ trên bàn, thậm chí đổ
xuống đất, đều phải lượm lên để ăn hết. Những đồng tu hành đường của chúng ta rất
khó được, lúc đem cơm, đem thức ăn cho mọi người, không cẩn thận làm rơi ít xuống
đất, thì họ liền lượm lên để ăn, điều này rất đáng được tán thán! Đó đều là để
tích phước, tiết kiệm, tiết chế để dưỡng đức.
Tiếp theo điều
thứ tám:
“Nhai cành dương nhổ
nước, cần phải cúi đầu, đưa nước xuống, không được phun nước ướt người”
Nhai cành dương, là giống như đánh răng, lúc đánh răng súc
miệng không được phun nước. Quý vị thấy, oai nghi tỉ mỉ đến như vậy, cụ thể từng
động tác, nhổ nước phải nhổ làm sao? Một số người có thói quen không tốt, húp một
chút nước rồi phun ra lại, có thể làm cho người bên cạnh ướt hết, đó là mất oai
nghi. Cần phải làm sao? “cúi đầu, đưa nước xuống”, từ từ nhổ nước xuống, nước
chảy xuống một lượng nhỏ, không phải “phun” để nhổ nước ra, làm cho thân thể
mình cũng bị ướt, càng không thể “phun nước ướt người”, tức phun lên thân người
khác, thì càng không tốt. Những oai nghi nay là bình thường của chúng ta, mà cần
phải chú trọng. Người thế gian cũng nói gọi là được giáo dục, xem quý vị có
giáo dục hay không, từ những động tác nhỏ này, thì biết được, động tác quý vị rất
thô lỗ, thì biết quý vị không có giáo dục. Không được dạy thì không chỉ chính
mình bị sỉ nhục, mà cha mẹ quý vị cũng bị mất mặt, người ta nói: con cái của
nhà đó không được giáo dục! Như đem cha mẹ ra chửi vậy, như vậy là thật bất hiếu
đối với cha mẹ.
Tiếp theo điều
thứ chín:
“Không được hỉ mũi,
khạc nhổ, ợ ói lớn tiếng”
Đang lúc ở trong chúng, nhất định phải yên lặng. Vì người
khác đều đang dụng công, người ta mắt quán mũi, mũi quán tâm, đang lúc niệm A
Di Đà Phật, đang niệm đến sắp được tam muội rồi, thì quý vị đột nhiên ho khạc một
cái, hoặc nhổ đờm, âm thanh rất lớn, thôi rồi, người ta không đắc tam muội nữa,
quý vị làm cho cơ duyên vãng sanh của người ta đoạn rồi, tội lỗi này của quý vị
rất lớn. Cho nên nhất định phải nhẹ nhàng, quý vị làm việc gì cũng cố gắng hạ
thấp âm thanh xuống, không gây ảnh hưởng đến người khác. Trong Đệ Tử Quy cũng
có rất nhiều giáo huấn như vậy, thí dụ “vén
rèm cửa, chớ ra tiếng”, đây đều là phải nhẹ nhàng, làm việc thanh thoát, từ
từ không nên vội vàng, nếu hấp tấp nóng nảy, thì liền không có đạo tâm rồi.
Lại tiếp đến
điều thứ mười:
“Không được hỉ mũi,
khạc nhổ trong điện tháp, nhà sạch, đất sạch và nước sạch, mà phải hỉ nhổ ở chỗ
khuất”
Đây nói không thể ở trong điện, trước, trong tháp miếu, hoặc
trong nhà sạch, trong điện phòng thanh tịnh, tại đất sạch, nước sạch, mà hỉ
mũi, nhổ nước bọt. Những điều này đều rất dễ dàng lý giải. Phải nên “ở chỗ khuất”,
tức là nơi vắng vẻ, trong góc, xó. Có đờm thì phải làm sao? Phải tìm nhà vệ
sinh hoặc con mương, nếu như không có, thì tay lấy khăn giấy, để bao đờm lại,
không thể tùy tiện nhổ đờm ra đất; không có khăn giấy thì dùng khăn tay cũng được,
rồi tự mình đi giặt.
Tiếp tục điều thứ 11:
“Khi đang uống trà,
không được dùng một tay xá chào người”
Lúc đang ăn cơm, uống trà, uống nước, thí dụ đang bưng
chén, bưng ly, thì người ta đến gặp quý vị, quý vị hướng người ta vái chào một
tay để thăm hỏi, đó là không nên, không cung kính. Quý vị muốn vấn tấn thì vấn
tấn hai tay, sao lại một tay? Quý vị xem những bộ phim võ thuật Thiếu Lâm Tự, họ
đều là dùng một tay xá chào, đó là không đúng pháp, phải chấp hai tay hướng người
làm lễ, đây là cung kính người khác. Quý vị không rảnh tay; thì không cần làm lễ,
dù cho gặp Hòa thượng, gặp Lão sư, mà đang lúc ăn cơm đều không cần làm lễ,
không cần phải đứng lên, đó là khai duyên, đối phương có thể hiểu được.
Điều thứ 12:
“Không được hướng mặt
về tháp mà chà xỉa răng, hoặc hướng mặt về hai vị thầy, vị đại Tỳ kheo, v.v..”
Tức là không thể hướng về tháp, hướng về tượng Phật v.v..
mà súc miệng, xỉa, đánh răng, như vậy rất khó coi, nhe răng nhếch miệng, không
có oai nghi. Cũng không thể “hướng mặt về hai vị thầy”, tức là Hòa thượng và A
xà lê của mình. Hễ là những vị sư trưởng, kể cả đại Tỳ kheo, đều không thể đối
trước các Ngài mà súc miệng, đánh răng, đều nên tránh đi. Quý vị thấy người đời,
họ cũng nói đến lễ nghĩa này, đều phải lấy một tay che lại. Chúng ta cũng vậy,
tay áo rất lớn, dùng tay áo che lại, để xỉa răng, đây đều là biểu thị quý vị có
giáo dục. Thời gian hôm nay hết rồi, chúng tôi giảng đến đây thôi. Cảm ơn mọi
người.
Chú thích thêm của dịch giả: Trong bài giảng này, Pháp sư Định
Hoằng có nhắc đến lời của Đại sư Ngẫu Ích: “kể từ thời Nam Tống trở về sau thì Trung
Quốc không có Tỳ kheo nữa”, quý vị đồng tu nghe pháp cần nên hiểu ý câu nói
này, là để cảnh tỉnh cho người xuất gia đời sau cần khiêm nhường, không nên ngạo
mạn mà dễ phạm vào tăng thượng mạn, còn đối với chúng ta thì tu hành quan trọng
là ở chính mình có làm được hay không, người khác làm được hay không không quan
trọng, không nên dùng chính câu này để phỉ báng chê bai người khác đặc biệt là
hàng xuất gia, thì tội lỗi rất lớn! Hơn nữa xét về góc độ giới luật để mà luận
điều kiện đắc được giới Tỳ-kheo thì có 3 trường hợp: thứ nhất là “Thiện Lai Tỳ
Kheo”, đây là vị Tỳ-kheo chỉ có ở trong thời Đức Phật tại thế, một vị thiện nam
khi đến gặp Phật, Phật nói “thiện lai Tỳ kheo”, thì râu tóc người đó liền rụng,
y phục Tỳ kheo tự nhiên đầy đủ – người đó liền đắc giới Tỳ-kheo; trường hợp thứ
hai là phá kiết sử Tỳ-kheo, tức là người tu chứng được quả A-la-hán thì tự
nhiên đắc giới Tỳ-kheo; Trường hợp thứ ba là thông qua truyền giới bằng pháp yết-ma
như các Giới-đàn hiện nay; ngoài ra còn theo cách dùng Chiêm Sát Luân Tướng
theo Kinh Địa Tạng Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo nói, như vậy thời nào cũng có
người có thể đắc được giới Tỳ-kheo qua 4 cách vừa kể. Hơn nữa câu nói trên của
Đại sư Ngẫu Ích có giới hạn là ở Trung Quốc, còn ở Việt Nam chúng thì không đề
cập tới, chúng ta không nên đem câu nói đó áp dụng luôn ở đất nước chúng ta, bởi
đất nước ta có cả Phật giáo Bắc Truyền và Nam Truyền, và sự truyền thừa cũng
khác ở Trung Hoa. Ngay trong bài giảng mới của Ngài Định Hoằng có nhắc đến Phật
giáo ở các nước Nam Truyền thì vẫn có Tỳ Kheo, và Ngài cũng kể Hòa thượng Quả
Thanh, vị thầy mà Ngài Định Hoằng theo học giới luật, Hòa thượng Quả Thanh đã
cùng đệ tử của ngài sang nước Phật giáo Nam Truyền để thọ giới Tỳ Kheo, nhằm đảm
bảo lòng tin đắc giới Tỳ kheo, nối tiếp dòng Tỳ Kheo rồi. Hơn nữa, nếu nhìn
theo góc độ Đại-thừa, thì thời nào cũng có Phật Bồ-tát Thánh nhân xuất hiện ở đời,
quý Ngài cũng đóng vai Tỳ kheo để nối dòng huệ mạng của Phật, chẳng lẽ quý Ngài
không đắc giới ư? Chẳng lẽ quý Ngài không thể truyền giới được cho người thật sự
có tâm cầu để đắc giới ư? Chúng ta là phàm phu mắt thịt không thể biết được thấy
được nhiều việc xung quanh, nên tốt nhất là luôn có tâm cung kính đối với người
xuất gia, như lời của Đại sư Ấn Quang nói “một phần thành kính được một phần lợi
ích, mười phần cung kính được mười phần lợi ích”. Đây là chia sẻ theo kiến giải
của dịch giả, có gì sai sót mong quý đồng tu lượng thứ! Nam Mô A Di Đà Phật.
(Hết tập 9)
Nguyện
đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều sanh về Tịnh độ.
Nam Mô A Di Đà Phật.